Xu Hướng 3/2023 # Bác Hồ Viết Di Chúc – Văn Kiện Lịch Sử Vô Giá # Top 12 View | Ezlearning.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bác Hồ Viết Di Chúc – Văn Kiện Lịch Sử Vô Giá # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Bác Hồ Viết Di Chúc – Văn Kiện Lịch Sử Vô Giá được cập nhật mới nhất trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, đã cống hiến trọn đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống no ấm hạnh phúc của nhân dân. Người để lại cho cho Đảng ta, đất nước ta, nhân dân ta một văn kiện lịch sử vô giá, đó là bản Di chúc thiêng liêng, mà đến nay và mãi về sau, chúng ta luôn ghi nhớ, học tập và làm theo.

Di chúc của Người là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn về nhiều mặt; là sự kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa của nhân loại, là những chỉ dẫn quý báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Di chúc là những lời căn dặn tâm huyết; mọi tâm nguyện cuộc đời, Bác đều gửi gắm trong Di chúc. Đây là một văn kiện lịch sử vô giá, toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”, là kết tinh giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại; của tinh hoa tư tưởng, đạo đức, phong cách, tâm hồn cao đẹp của Người, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân và nhân loại. Di chúc là những lời căn dặn quý báu, là ánh sáng soi đường, là sức mạnh thôi thúc hành động, không chỉ đối với nhân dân ta mà đối với các dân tộc đã và đang đấu tranh cho tự do, độc lập, hòa bình, công lý, vì hạnh phúc của con người.

Theo đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc để lại cho muôn đời sau lúc 9 giờ sáng thứ hai, ngày 10-5-1965, đến 10 giờ, Bác viết xong phần mở đầu. Bác xếp tài liệu lại và chuyển sang làm các công việc thường ngày. Các ngày tiếp theo (ngày 11, 12 và 13-5-1965), cũng vào giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác viết tiếp các phần còn lại. Riêng ngày 14-5-1965, do buổi sáng có lịch đi thăm một hợp tác xã ở ngoại thành Hà Nội và dự một phiên họp của Bộ Chính trị, Bác chuyển viết Di chúc sang buổi chiều với thời gian gấp đôi, từ 14 giờ đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy xong bản Di chúc và cho vào phong bì. Đến 21 giờ hôm đó, Bác giao chiếc phong bì cho đồng chí Vũ Kỳ và dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho Bác”.

Và cứ đến dịp sinh nhật Bác hằng năm, đồng chí Vũ Kỳ lại đặt bản Di chúc lên bàn làm việc của Bác; sau đó Bác bổ sung và giao lại cho đồng chí Vũ Kỳ. Bác đọc kỹ bản Di chúc, xem xét, cân nhắc kỹ từng đoạn, từng câu, từng ý, từng lời và bổ sung thêm vào bản Di chúc tùy theo tình hình đất nước. Đặc biệt, qua tình hình chiến sự miền Nam, Bác lại viết thêm những phần cần thiết vào bản Di chúc. Năm 1966, Bác bổ sung thêm phần nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Năm 1967, Bác xem lại bản Di chúc, nhưng không sửa gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang, gồm một số đoạn về việc riêng và một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Năm 1969, Bác xem và viết lại toàn bộ phần mở đầu gồm 1 trang viết tay. Ngày 19-5-1969, Bác sửa lần cuối. Toàn văn Di chúc được công bố sau ngày Bác Hồ qua đời (ngày 02-9-1969). Di chúc và toàn bộ tư tưởng của Bác là tài sản vô giá để lại cho Đảng và nhân dân ta.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra hết sức ác liệt và có những dấu mốc quan trọng; cách mạng dù còn khó khăn, song đang trên đà thắng lợi, đồng thời đòi hỏi sự đoàn kết, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.

Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Người đã dẫn dắt Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Bác đặc biệt quan tâm căn dặn: “Trước hết nói về Đảng”. Trong Di chúc, Bác nhấn mạnh “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”. Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Trong Di chúc, Bác Hồ cũng chỉ rõ: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài…” và “dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi”. Người cũng thường căn dặn và mong muốn, sau khi chiến tranh kết thúc, cần ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng trong xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Đối với đoàn viên thanh niên, trong Di chúc Bác chỉ rõ vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Bác đối với việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Bác căn dặn và nhấn mạnh: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau mỗi lần chiến thắng, ông cha ta lại có kế sách để bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng. Di chúc của Bác đã kế thừa truyền thống lâu đời đó của dân tộc ta. Với tình thương bao la dành cho mọi tầng lớp nhân dân, Bác đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Trong Di chúc, Bác đưa ra lời tiên đoán có tính chất khẳng định, như một tất yếu của lịch sử: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn” và “dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi”.

Trong Di chúc, Bác viết: “… Tôi mong rằng, Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. 

Suốt đời phục vụ nhân dân, đất nước, trong Di chúc Bác không đề cập đến “cá nhân” hay “bản thân”, mà nói “về việc riêng”, bởi suốt đời Bác phấn đấu cho hạnh phúc của toàn dân. Cái riêng của Bác hòa trong cái chung của dân tộc. Suốt đời Bác vì dân, vì nước, vì Đảng, nên không lúc nào Bác nghĩ đến bản thân mình. Trước lúc đi xa, Người “không có điều gì phải hối hận” vì Bác đã phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân hết sức, hết lòng. Người “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Mỗi dòng, mỗi điều Bác Hồ viết và để lại trong Di chúc là chỉ dẫn vô giá, là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam, để đất nước ta được phồn vinh, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Thế mà Bác chỉ coi đó là “để sẵn mấy lời” trước khi đi xa. Nhưng đó là tâm nguyện, là tình cảm, ý chí, trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Đó cũng là niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cho đến những ngày cuối đời, Bác vẫn ấp ủ ước mơ, khát khao cháy bỏng đưa đất nước ta tiến lên “Sánh vai cùng năm châu bốn biển”. Và điều mong muốn cuối cùng của Bác, cũng là những dòng cuối cùng Người viết trong Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu đoàn kết, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Nguyễn Văn CôngGiám đốc Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch   Theo Báo Quân đội nhân dân điện tửThu Hiền (st)

Di Chúc Của Bác Hồ

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương lao động ngôn từ mẫu mực

* Một tấm gương lao động ngôn từ

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công bố tại Hà Nội, năm 1989, bao gồm:

• Năm 1965, Bác viết bản Di chúc gồm 3 trang, do chính Bác đánh máy, ở cuối đề ngày 15-5-1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh, có chữ ký của Bác, bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng hồi bấy giờ.

• Năm 1968, Bác viết bổ sung một số đoạn gồm 6 trang viết tay.

• Ngày 10-5-1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm 1 trang viết tay.

Trong lời đầu tập, NXB Trẻ giới thiệu về tác phẩm Di chúc của Bác Hồ – Một giáo trình tiếng Việt độc đáo: “Trong di sản về ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một loại tài sản quý giá vừa hết sức sinh động, vừa cụ thể và thiết thực, đó chính là tấm gương lao động ngôn từ của Người. Việc Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VI) công bố toàn bộ ảnh chụp bút tích Di chúc của Bác vào dịp kỷ niệm 20 năm ngày qua đời của Người (ngày 2-9-1989), đã cung cấp cho chúng ta một bằng chứng xác đáng về tấm gương lao động ngôn từ đó.

Tìm hiểu và học tập tấm gương lao động ngôn từ của Người là một phương pháp tự bồi dưỡng cần thiết và hữu ích, góp phần nâng cao trong mỗi chúng ta lòng “biết quý trọng tiếng ta”, góp phần “giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” như lời dạy của Người”.

 

Còn nhà Việt ngữ học, PGS – Nhà giáo ưu tú Trần Chút (Hồng Dân) thì đánh giá: “Đọc Di chúc trong những bản thảo viết tay, dừng lại và chăm chú vào những chữ, những đoạn, những dòng đảo lên chuyển xuống, xóa đi chữa lại, lược bớt thêm vào, chúng ta nhận biết quá trình Hồ Chí Minh tạo lập và hoàn thiện một văn bản. Đó là một quá trình lao động ngôn từ đầy cẩn trọng, công phu và trách nhiệm. Một bài học lớn. Một tấm gương sáng. Tôi tin rằng đây cũng chính là thông điệp mà tác giả của quyển sách Di chúc của Bác Hồ – Một giáo trình tiếng Việt độc đáo mong muốn gửi đến bạn đọc”.

* Công trình 30 năm

Thật thú vị khi biết cách đây gần 30 năm, từ thời còn sinh viên, tác giả Dương Thành Truyền đã bắt đầu nghiên cứu về phong cách lao động ngôn từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và viết công trình khoa học thực thụ về ngôn ngữ học về Di chúc của Bác Hồ.

Tác giả Dương Thành Truyền có hơn 25 năm hoạt động Đoàn, Đội, công tác thanh niên và kinh nghiệm giảng dạy. Ông là nhà báo, từng là Phó tổng biên tập Báo Tuổi Trẻ và hiện là Chủ tịch HĐQT NXB Trẻ chúng tôi Ông Dương Thành Truyền bày tỏ hy vọng cuốn sách Di chúc của Bác Hồ – Một giáo trình tiếng Việt độc đáo có thể góp thêm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, phổ biến, nâng cao năng lực và vun đắp tình yêu đối với tiếng Việt; đồng thời, là việc làm thiết thực tham gia đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tác giả khảo sát các trường hợp Bác Hồ tự sửa chữa trong quá trình viết Di chúc nhằm tìm hiểu việc sử dụng ngôn từ của Người, để từ đó rút ra những bài học thực tiễn về các trường hợp “nói và viết có hiệu lực”. Như vậy, có thể xem cuốn sách này bàn đến những vấn đề thuộc về con đường chung của phong cách học. Qua đó tìm kiếm những bài học cụ thể, có giá trị thực tiễn trong việc rèn luyện cách viết tiếng Việt.

Các trường hợp sửa chữa về ngôn ngữ của Bác trong Di chúc làm đối tượng nghiên cứu bởi vì, theo tác giả Dương Thành Truyền, “chính trong các trường hợp ấy, chúng ta thấy rõ hơn đâu hết các thao tác lựa chọn ngôn ngữ của Bác Hồ và “giá trị của sự thay thế, hiệu lực của sự thay thế này”. Tìm hiểu các trường hợp sửa chữa của Bác Hồ trong Di chúc thực chất là tìm kiếm lời giải đáp: “Vì sao Bác Hồ sửa chữa ngôn từ như thế?”.

* Di chúc của Bác có giá trị lớn lao về lý luận lẫn thực tiễn

 “Có ai ngờ được rằng, để viết Di chúc – một văn bản khoảng hơn 1 ngàn chữ, Bác Hồ đã dành công sức trọn vẹn hơn 4 năm trời! Hình như chưa bao giờ Người hài lòng với những gì mình đã viết. Năm nay viết, mấy năm sau Bác lại tìm cách bổ sung, thêm bớt, thậm chí thay đổi lại cả những đoạn đã từng được sửa chữa rồi. Cứ mỗi lần viết, chúng ta thấy Bác để tâm cân nhắc từng chữ, lựa chọn từng ý từng lời, vừa viết vừa sửa. Có khi viết xong, đọc lại, Bác lại sửa tiếp bằng mực đỏ. Người luôn luôn quan tâm tìm cách diễn đạt sao cho chính xác, hay hơn, tốt hơn” – tác giả Dương Thành Truyền tâm đắc viết.

Bút tích Di chúc viết tay của Bác Hồ

Từ việc khảo sát 65 trường hợp Bác Hồ tự sửa chữa ngôn từ, tác phẩm cho rằng “Di chúc của Người như là một giáo trình hết sức độc đáo, sinh động, hấp dẫn dạy cho chúng ta nhiều bài học cụ thể, có giá trị thực tiễn trong việc rèn luyện cách nói, cách viết tiếng Việt”. Đó là bài học về việc lựa chọn và sử dụng hư từ; bài học về việc lựa chọn từ ngữ phù hợp với điểm nhìn và chỗ đứng, thái độ và tình cảm của người phát ngôn; bài học về sự lựa chọn kiểu diễn đạt vừa ngắn gọn vừa hàm chứa lượng thông tin cao; Bài học về việc tổ chức lại câu để làm tăng giá trị biểu cảm. “Chúng ta tìm kiếm những giá trị ấy trong mối quan hệ giữa cái chung (những đặc điểm về phong cách ngôn ngữ của Bác Hồ đã được phát hiện) với cái riêng (thực tiễn vận dụng ngôn ngữ của Bác Hồ trong các trường hợp đang khảo sát)” – ông Dương Thành Truyền bày tỏ.

Long Khánh

 

Sang Tên Sổ Đỏ Theo Di Chúc, Di Chúc Miệng, Di Chúc Chúc Công Chứng, Di Chúc Tay

Chào luật sư công ty luật Việt Hưng, tôi muốn hỏi sang tên sổ đỏ theo di chúc như thế nào? do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên tôi phải đi làm ăn xa nhà đã lâu. Hiện nay tôi cũng đã lập gia đình và ở trong thanh phố Hồ Chí Minh. Cách đây hơn 2 năm bố mẹ tôi tuổi già đã mất và có để lại di chúc được xã (nay là phường) của tỉnh Bắc Ninh xác nhận, đóng dấu vào di chúc. Nội dung di chúc là bố mẹ tôi để lại cho tôi mảnh đất, trên đất có một căn nhà cấp 4. Trong gia đình có 5 anh chị em, tôi là con thứ 3, người anh cả muốn được toàn bộ mảnh đất đó thì yêu cầu của người anh cả có đúng không? Nếu tôi muốn thực hiện thủ tục sang tên sổ đỏ theo di chúc thì phải làm thế nào? Nếu người anh cả ngăn cản thì có cách nào thực hiện thủ tục sang tên sổ đỏ theo di chúc không?

Để trả lời câu hỏi của bạn, luật Việt Hưng trích dẫn một số quy định của Bộ luật dân sự 2015 về di chúc và người thừa kế cụ thể:

Điều 609 bộ luật dân sự 2015 quy định về qyền thừa kế như sau:

“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”

Theo nội dung của di chúc, bạn là người thừa kế được bố mẹ bạn chỉ định trong di chúc là phù hợp theo quy định tại Điều 613 Bộ luật dân sự 2015 về người thừa kế:

Bộ luật sự 2015 quy định về di chúc như sau:

Điều 624. Di chúc Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Điều 625. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Điều 626. Quyền của người lập di chúc Người lập di chúc có quyền sau đây:

Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Điều 627. Hình thức của di chúc Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Điều 628. Di chúc bằng văn bản Di chúc bằng văn bản bao gồm:

Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;

Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;

Di chúc bằng văn bản có công chứng;

Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Di chúc của bố mẹ bạn để lại được xem là hợp pháp khi đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại điều 630 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể:

“Điều 630. Di chúc hợp pháp Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. 4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này. 5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

Như vậy, nếu di chúc của bố mẹ bạn đáp ứng được cái quy định nêu trên thì người anh cả của bạn không đủ căn cứ để yêu cầu được sử dụng toàn bộ mảnh đất của bố mẹ bạn đã để lại cho bạn theo di chúc.

Giả sử trường hợp bố mẹ bạn không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản đó sẽ được chia theo pháp luật. Trường hợp này thì người anh cả của bạn cũng không thể được sử dụng toàn bộ thửa đất nếu không có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác bằng văn bản.

Để thực hiện thủ tục sang tên sổ đỏ theo di chúc mà bố mẹ bạn để lại bạn cần làm các thủ tục sau:

1. Chuẩn bị hồ sơ gồm:

Giấy chứng tử của bố mẹ bạn;

Giấy chứng tử của ông bà nội và ông bà ngoại bạn;

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

Giấy khai sinh của bạn;

Xác nhận không có người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc;

Di chúc;

Chứng minh/sổ hộ khẩu/căn cước công dân hoặc hộ chiếu.

2. Tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế

Bạn có thể tham khảo bài viết Thủ tục khai nhận di sản thừa kế nhà đất theo di chúc hoặc liên hệ với luật sư công ty luật Việt Hưng để được tư vấn thêm về nội dung này.

3. Thực hiện thủ tục sang tên sổ đỏ theo di chúc

Sau khi đã hoàn thành Thủ tục khai nhận di sản thừa kế theo quy định của pháp luật, bạn chuẩn bị hồ sơ để làm thủ tục sang tên sổ đỏ theo di chúc gồm:

Văn bản khai nhận di sản thừa kế;

Giấy chứng tử của bố mẹ bạn;

Giấy chứng tử của ông bà nội và ông bà ngoại bạn;

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

Giấy khai sinh của bạn;

Xác nhận không có người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc;

Di chúc;

Chứng minh/sổ hộ khẩu/căn cước công dân hoặc hộ chiếu.

Tờ khai thuế thu nhập cá nhân;

Tờ khai lệ phí trước bạ nhà đất;

Biên lai đóng thuế đất phi nông nghiệp năm gần nhất;

Nộp hồ sơ Sang tên sổ đỏ theo di chúc tại cơ quan tài nguyên môi trường thuộc ủy ban nhân dân huyện/quận nơi có đất và nhận giấy biên nhận nộp hồ sơ và trả kết quả. Đến ngày hẹn trả kết quả bạn có thể liên hệ với bộ phận tiếp nhận hồ sơ để nhận thông báo thuế và nghĩa vụ tài chính khác (trường hợp này của bạn sẽ được miễn thuế tu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ) và nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên của bạn.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ

Điện thoại: 024 6292 4060

Hotline: 0933 835 886

Website: luatviethung.com

Email: luatviethung01@gmail.com

Điều Kiện Để Di Chúc Có Hiệu Lực Pháp Luật

Việc phân chia tài sản thừa kế và nghĩa vụ thừa kế được dựa vào hai căn cứ chủ yếu là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo pháp luật được pháp luật quy định tương đối cụ thể nên thông thường ít xảy ra tranh chấp. Riêng đối với các trường hợp thừa kế theo di chúc, các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc hiện nay còn chưa chặt chẽ, thống nhất dẫn đến các tranh chấp về thừa kế hiện nay là tương đối phổ biến.

Theo quy định tại Điều 646 Bộ luật dân sự thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Chủ thể có quyền lập di chúc

Người thuộc các trường hợp sau có quyền lập di chúc:

Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản cho người khác trước khi chết. Nếu đủ điều kiện để lập di chúc như trên thì người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế và phân định tài sản của mình mà không cần sự đồng ý của bất kỳ ai.

Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp

Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;

Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

Về hình thức của di chúc: Di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng (Điều 649 BLDS 2005)

Hình thức của di chúc

Di chúc có thể được lập thành văn bản hoặc di chúc miệng.

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

– Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết tay và ký vào bản di chúc. (Điều 655 Bộ luật dân sự 2005)

– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt những người làm chứng, những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc (Điều 656 Bộ luật dân sự 2005)

– Di chúc bằng văn bản có công chứng;

– Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Di chúc bằng văn bản phải bảo đảm các nội dung sau:

– Ngày, tháng, năm lập di chúc;

– Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

– Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

– Di sản để lại và nơi có di sản;

– Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

Lưu ý: Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Di chúc miệng

Di chúc miệng được lập trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Nếu sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc vẫn còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng sẽ mặc nhiên bị hủy bỏ (Điều 651 Bộ luật dân sự 2005).

Cập nhật thông tin chi tiết về Bác Hồ Viết Di Chúc – Văn Kiện Lịch Sử Vô Giá trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!