Bạn đang xem bài viết Có Thể Thay Đổi Thỏa Thuận Sau Khi Tòa Án Tiến Hành Hòa Giải Không ? được cập nhật mới nhất trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Câu hỏi của khách hàng:
Chào luật sư. Tôi tên là Hòa, 40 tuổi, hiện đang cư trú tại Long Biên. Tôi có một thắc mắc như sau mong được luật sư giải đáp giúp cho:
Do mâu thuẫn vợ chồng, tôi nộp đơn ly hôn với chồng lên Tòa án nhân dân quận Long Biên. Ngày 03/02/2020 vừa qua, Tòa án triệu tập tôi và chồng tôi lên hòa giải. Sau khi nghe chồng hứa hẹn và Tòa án phân tích, tôi đã đồng ý cho chồng nuôi cả hai con chung do chồng tôi có thu nhập rất cao, đảm bảo cuộc sống đầy đủ cho các con.
Tuy nhiên, khi về nhà tôi suy nghĩ lại, tôi muốn nuôi con để con có tình cảm của mẹ, để tôi có thể dạy dỗ con nên người. Vậy luật sư cho tôi hỏi, tôi đã ký vào thỏa thuận trên rồi thì có thay đổi được không? Tôi xin cảm ơn.
Luật Thái An trả lời:
1. Cơ sở pháp lý về hòa giải ly hôn:
Cơ sở pháp lý:
Luật Hôn nhân và gia đình 52/2014/QH13
Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình
2. Thế nào là hòa giải trong ly hôn ?
Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong thủ tục ly hôn. Đối với thuận tình ly hôn thì Tòa án yêu cầu hòa giải ít nhất một lần. Đối với đơn phương ly hôn thì Tòa án yêu cầu nhiều hơn một lần hòa giải tại Tòa. Trường hợp của bạn là ly hôn đơn phương, được giải quyết theo luật tố tụng dân sự.
Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về Hòa giải trong tố tụng dân sự thì:
“Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”
Bên cạnh đó, điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải:
“1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;
b) Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”
Theo đó, hòa giải là một thủ tục bắt buộc đối với tất cả vụ án dân sự (trừ một số vụ việc đặc biệt theo quy định).
3. Thủ tục hòa giải ly hôn như thế nào ?
Việc hòa giải dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý kiến của các đương sự. Khi hòa giải, Tòa án sẽ tiến hành tìm ra nguyên nhân của mâu thuẫn, tranh chấp và phân tích đúng sai cho các đương sự hiểu và thỏa thuận với nhau.
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp sau khi được Tòa án hòa giải thì các đương sự đã giải quyết được mâu thuẫn mà không cần tới sự phân xử của Tòa ở phiên xét xử sơ thẩm. Có thể thấy, hòa giải có ý nghĩa rất quan trọng giúp mâu thuẫn giữa các đương sự được giải quyết trong sự hòa thuận giữa các bên và giúp kết thúc vụ án một cách nhanh chóng, thuận tiện.
Đối với trường hợp của bạn, Tòa án tiến hành hòa giải là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Việc bạn đã ký vào thỏa thuận đồng ý cho chồng nuôi con được coi là hòa giải thành về vấn đề nuôi con giữa hai vợ chồng bạn. Kết quả của quá trình hòa giải ly hôn là Biên bản hòa giải, có thể là hòa giải thành hoặc hòa giải không thành.
4. Có thể thay đổi sau khi Tòa hòa giải thành không ?
Về vấn đề thay đổi thỏa thuận sau khi Tòa án tiến hành hòa giải thành thì điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì:
“1. Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.”
Theo đó, hai bạn được tòa tiến hành hòa giải ngày 03/02/2020 cũng là ngày bạn ký biên bản thỏa thuận đồng ý để chồng nuôi cả hai con chung nên ngày 03/02/2020 được coi là ngày lập biên bản hòa giải thành. Theo quy định tại điều 212 nêu trên thì hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Như vậy, nếu bạn thay đổi ý kiến, không đồng ý cho chồng nuôi cả hai con chung nữa mà vẫn còn thời hạn 07 ngày nêu trên thì bạn cần ngay lập tức làm đơn trình bày về việc thay đổi thỏa thuận và đến Tòa án để được Tòa hướng dẫn thay đổi.
Nếu quá thời hạn 07 ngày nêu trên, bạn không có quyền thay đổi ý kiến của mình nữa theo điều 213 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự:
“1. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.”
Theo đó, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự sẽ có hiệu lực ngay mà không bị kháng cáo. Quyết định này chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
5. Tóm tắt tư vấn về thay đổi sau khi hòa giải ly hôn
Việc thay đổi thỏa thuận sau khi Tòa án tiến hành hòa giải thành chỉ được tiến hành trong vòng 07 ngày kể từ ngày ký biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn 07 ngày, Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và các đương sự không có quyền thay đổi ý kiến của mình nữa.
6. Dịch vụ luật sư tư vấn và giải quyết ly hôn của Luật Thái An
Sử dụng dịch vụ luật sư tư vấn và giải quyết ly hôn là một lựa chọn khôn ngoan bởi luật sư sẽ giúp bạn bảo vệ lợi ích hợp pháp một cách tối đa khi chia tài sản vợ chồng, khi giải quyết việc nuôi con và cấp dưỡng cho con. Hơn nữa, việc ly hôn sẽ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn nhiều so với bạn tự mầy mò thực hiện các thủ tục ly hôn, đơn giản vì bạn chưa có kinh nghiệm và không hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ.
Nếu bạn cần dịch vụ luật sư tư vấn và giải quyết ly hôn cho mình, bạn vui lòng tham khảo dịch vụ của chúng tôi khi xem bài viết Dịch vụ ly hôn. Ngoài ra, Bảng giá dịch vụ có tại bài viết Bảng giá dịch vụ ly hôn và giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình.
LIÊN HỆ NGAY ĐỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG DỊCH VỤ!
Tác giả bài viết:
Luật sư Nguyễn Thị Huyền
Thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam, thành viên Đoàn Luật sư Hà Nội
Cử nhân Đại học Luật Hà Nội (tháng 6/2000)
Thẻ Luật sư số 6459/LS (tháng 7/2011)
Lĩnh vực hành nghề: Hôn nhân gia đình, Doanh nghiệp, Đầu tư nước ngoài, Đất đai, Dân sự
Đương Sự Có Được Quyền Thay Đổi Ý Kiến Về Sự Thỏa Thuận?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS năm 2015 thì “Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”. Có nghĩa là, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, nếu có đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận tại phiên họp hòa giải thì Thẩm phán phải tiếp tục giải quyết vụ án mà không được quyền ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên trong thực tiễn vẫn còn cách hiểu khác nhau về thời hạn 07 ngày, dẫn đến việc có ý kiến khác nhau về việc đương sự có được quyền thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đã được Tòa án lập biên bản hòa giải thành không.
Nội dung vụ việc:
” Ngày 01/02/2019, Tòa án nhân dân huyện X lập biên bản hòa giải thành, ghi nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự. Nội dung các đương sự thỏa thuận như sau: Ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị D đồng ý trả cho bà Trần Thị L số tiền vay còn nợ là 150.000.000 đồng. Tòa án gửi cho các đương sự bản sao biên bản hòa giải thành ngày 01/02/2019.
Ngày 11/02/2019, ông Nguyễn Văn T đến Tòa án gửi văn bản nêu ý kiến về việc ông không đồng trả tiền cho bà L theo thỏa thuận ngày 01/02/2019. Lý do là số nợ này vợ của ông vay của bà L nhưng ông không biết “. Vậy ông T có được quyền thay đổi ý kiến không, hiện còn có ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng ông T không được quyền thay đổi ý kiến. Bởi vì trong biên bản hòa giải thành ngày 01/02/2019 mà đương sự được Tòa án giao đã nêu rất rõ là “Trong thời hạn 07 (bảy) ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thoả thuận trên thì phải làm thành văn bản gửi cho Toà án. Hết thời hạn này, mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận trên thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, pháp luật quy định đương sự được quyền thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận trong thời hạn 07 ngày, chứ không phải là 07 ngày làm việc. Cho nên ngày 11/02/2019, ông T mới gửi cho Tòa án văn bản thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận là đã quá 07 ngày (mặc dù từ ngày 02/02/2019 đến ngày 10/02/2019 là 09 ngày nghỉ lễ Tết nguyên đán năm 2019). Do đó, Thẩm phán chủ trì phiên họp hòa giải phải ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự vào ngày 11/02/2019 (do ngày thứ 8 trùng vào ngày nghỉ Tết nguyên đán).
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm tác giả cho rằng ông T được quyền thay đổi ý kiến. Bởi vì biên bản hòa giải thành được lập ngày 01/02/2019. Ngày bắt đầu tính thời hạn 07 ngày là từ ngày 02/02/2019. Tuy nhiên, từ ngày 02/02/2019 đến ngày 10/02/2019 là ngày nghỉ lễ Tết (Tòa án không làm việc), cho nên đương sự không thể gửi cho Tòa án văn bản thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận được. Do đó, ngày bắt đầu tính thời hạn 07 ngày là từ ngày 11/02/2019 (ngày Tòa án bắt đầu làm việc sau khi nghỉ lễ Tết nguyên đán năm 2019). Thời hạn cuối cùng ông T được quyền thay đổi ý kiến là đến ngày 18/02/2019. Quan điểm này là nhằm bảo vệ quyền lợi của đương sự, nhất là quyền tự thỏa thuận của đương sự.
Có Được Yêu Cầu Thi Hành Án Sau Khi Đã Rút Đơn?
Hỏi: Quyết định của tòa án buộc một người phải hoàn trả cho tôi số tiền 500 triệu đồng. Sau đó, tôi rút đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án. Xin hỏi luật sư, nếu bây giờ tôi tiếp tục làm đơn yêu cầu thi hành án thì có được giải quyết không?. Nguyễn Hoàng Tùng (Hà Đông, Hà Nội).
Trả lời:
Đình chỉ thi hành án là việc cơ quan thi hành án ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định dân sự khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật, đồng thời là căn cứ để cơ quan thi hành án ra quyết định kết thúc thi hành án. Đặc điểm của đình chỉ thi hành án là việc chấm dứt thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự. Việc thi hành án sau khi bị đình chỉ sẽ không được đưa ra thi hành theo trình tự của pháp luật về thi hành án dân sự. Các bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo nội dung trong bản án, kể cả nghĩa vụ đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định đình chỉ thi hành án khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật.
Một trong những trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án được quy định tại khoản 22 điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 là: “Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”;
Vì vậy, trường hợp của ông, cơ quan thi hành án dân sự không có căn cứ để thụ lý lại đơn yêu cầu thi hành án.
L.S Trịnh Khánh Toàn (Đoàn luật sư TP Hà Nội)
Nguồn :
Đương Sự Được Quyền Thay Đổi Ý Kiến Về Sự Thỏa Thuận Tại Phiên Họp
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự là trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Việc hòa giải được thực hiện theo các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Như vậy, theo nội dung Điều luật 212 Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định hết thời hạn 07 ngày làm việc mà chỉ quy định 07 kể từ này lập biên bản hòa giải thành không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Ngày 01/02/2019, Tòa án nhân dân huyện X lập biên bản hòa giải thành, ghi nhận sự thỏa thuận giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị D với nội dung: ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị D đồng ý trả cho bà Trần Thị L số tiền vay còn nợ là 150.000.000đ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật Dân sự thì thời hạn được tính từ ngày tiếp theo liền kề của ngày xảy ra sự kiện đó theo đó ngày bắt đầu tính thời hạn 07 ngày là từ ngày 02/02/2019. Nhưng từ ngày 02/02/2019 đến ngày 10/02/2019 là ngày nghỉ lễ Tết thì theo khoản 5 Điều 148 Bộ luật dân sự quy định khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó. Như vậy, ngày kết thúc thời hạn (ngày cuối cùng) để ông Nguyễn Văn T gửi văn bản nêu ý kiến không đồng ý trả tiền là ngày 11/2/2019 nên đúng ngày 11/2/2019 ông Nguyễn Văn T đến Tòa án gửi văn bản nêu ý kiến về việc ông không đồng ý trả tiền cho bà L theo thỏa thuận ngày 01/02/2019 thì Tòa án nhân dân huyện X không được ban hành Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự.
Cập nhật thông tin chi tiết về Có Thể Thay Đổi Thỏa Thuận Sau Khi Tòa Án Tiến Hành Hòa Giải Không ? trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!