Bạn đang xem bài viết Giải Thích Một Số Từ Ngữ Thường Dùng Trong Gia Phả, Bia Mộ … được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Không ít lần tôi được nghe nhiều người kể về dòng họ của mình, khoe với tôi rằng: “Cụ tổ nhà tôi ngày xưa làm quan to lắm, là Nguyễn quý công cơ đấy” (người họ Lê thì khoe là Lê quý công v.v..). Và khi nói, thường nhấn mạnh hai từ quý công như một minh chứng cho cái gọi là làm quan to (!) Có người còn nói một cách đầy hãnh diện: “Các cụ nhà tôi đều làm to cả, cụ nào cũng quý công”.Trong lần họ Trịnh cùng UBND huyện Vĩnh Lộc tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 447 ngày mất của Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm và cuộc gặp mặt anh em họ Trịnh tại FLC Sầm Sơn, Thanh Hóa vào ngày 16/3/2023, tôi thấy một số anh em họ ta, nhất là các cháu tuổi trẻ cũng còn hiểu biết mơ hồ về một số từ ngữ Hán trong gia phả, bia mộ, bài vị …
Do mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam và Trung Quốc nên trong một thời gian khá dài, hàng thiên niên kỷ, người Việt Nam dùng chữ Hán làm công cụ giao tiếp, nhất là trong các loại văn bản hành chính, khoa học… Từ đầu thế kỷ XX, cha ông ta đã thấy được sự tiện lợi của chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ phương Tây truyền bá nên đã phát động phong trào sử dụng chữ Quốc ngữ sâu rộng trên toàn quốc. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, chữ Quốc ngữ đã trở thành con chữ chính thức trong hoạt động giao tiếp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó trở đi, nhất là cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, chữ Hán không còn thông dụng nữa. Vì vậy mới xảy ra những trường hợp như tôi kể ở trên.
Hiện nay, còn không ít các tài liệu như gia phả, bản ghi chép ngày giỗ, bia mộ … của nhiều gia đình, dòng họ được các cụ ngày xưa ghi bằng chữ Hán. Các gia đình, dòng họ đã phiên âm sang tiếng Việt và dịch nghĩa. Nhưng vẫn tồn tại những cách hiểu nhầm như tên húy, tự, hiệu, quý công …
Thể theo đề nghị của một số bà con, nhất là các cháu trong họ, để những ai trong họ và độc giả chưa hiểu một cách rõ ràng một số từ ngữ ấy, tôi xin bước đầu nêu những hiểu biết của riêng mình để bà con trong họ, ngoài làng tham khảo. Có gì sai sót, mong bà con và các bậc túc nho chỉ giáo. Ai có điều gì cần trao đổi, xin email qua địa chỉ sau: tuantd.thptdongson1@thanhhoa.edu.vn
I- Về bản ghi ngày giỗ (kị)
Ở quê tôi (Thanh Hóa) đang còn không ít văn bản ghi ngày giỗ bằng chữ Hán viết trên gỗ được sơn son thếp vàng hoặc trên tấm đồng (xem hình 1 và hình 2) .
Xem ví dụ sau (từ hàng dọc, xin chuyển sang hàng ngang cho dễ trình bày):
Cao tằng tổ khảo Trịnh quý công húy Nhạc tự Phúc Bính, thụy Minh Quang
Mộ tại Bái đồng xứ
Nhị nguyệt sơ nhất nhật kị
Cứ như vậy, hết cụ ông đến cụ bà xa đời nhất thì đến cụ ông, cụ bà đời kế tiếp cho đến đời gần nhất (thường là cha mẹ). Nếu trong một đời nào đó mà 1 trong 2 cụ còn sống thì người ta bỏ trống 1 hàng để sau này bổ sung.
Về cụ bà, có thể cụ ông có trên một bà. Thường xảy ra hai trường hợp sau:
+ Một cụ ông có vợ cả, vợ lẽ. Vợ cả gọi là chính thất (政室), các bà vợ lẽ gọi là á thất (亞室) hoặc trắc thất (側室)…
+ Một cụ ông có 2 đời vợ, đời vợ trước mất, lấy bà sau làm vợ kế. Người vợ trước của cụ, người ta có thể viết là tỉ (妣) hoặc chính tỉ (政妣). Người vợ sau, người ta thường viết là kế thất (繼室)…
Trong trường hợp gia đình ông H có người anh trai, em trai, em gái mất khi còn nhỏ hoặc khi chưa có con v.v.. người ta cũng ghi vào đây để nhớ ngày giỗ.
Nam giới, nếu là anh thì ghi thêm chữ đường bá và được viết ở hàng trước ông H, nếu là em, ghi thêm chữ đường thúc và được viết ở hàng sau ông H. Nữ giới, chữ tỉ thay bằng chữ cô và được viết ở hàng sau ông H.
Xin tóm lại cách gọi các đời như sau:
Có nhiều cách ghi trên bia mộ. Ở dạng đầy đủ nhất, trong bia có các nội dung sau: Theo hàng dọc, ở giữa bia là tên người mất, hưởng thọ. Hai bên trái, phải dùng để ghi ngày tháng năm sinh, mất và tên người được giao việc thờ cúng người dưới mộ hoặc người bảo quản ngôi mộ. Hầu hết các bia chỉ ghi họ tên người mất và ngày mất. Một số gia đình do kiêng nên không ghi tên húy. Xin trình bày một cách ghi bia mộ như sau:
III- Tên húy, tự, hiệu, thụy 1- Tên húy:
* Hai chữ hàng ngang trên cùng là Phụng vị: Tương đương với nghĩa phụng thờ. * Tám chữ thuộc hàng dọc ở giữa: + Năm chữ đầu tiên: Hiển khảo Nguyễn Văn Ninh (hoặc Trữ. Chữ này có 2 âm đọc). Nghĩa: Cha là Nguyễn Văn Ninh (hoặc Trữ). + Ba chữ cuối: chi linh vị : nghĩa là Linh vị. * Năm chữ thuộc hàng dọc bên phải: Chính tỉ Thân Thị Gian. Nghĩa: mẹ là Thân Thị Gian. * Năm chữ thuộc hàng dọc bên trái: Kế thất Nguyễn Thị Chất (hoặc Chí. Chữ này có 2 âm đọc). Nghĩa: Mẹ kế là Nguyễn Thị Chất
Tên húy là tên cha mẹ đặt cho từ lúc còn nhỏ, ta còn gọi là tên tục. Ngày nay là tên khai sinh, tên thường gọi. Tuy nhiên, trong thực tế, có không ít người nhầm lẫn, cho rằng tên húy là tên cúng cơm. Đó là điều nhầm lẫn thật đáng tiếc!
3- Tên hiệu: Tên hiệu là tên được đặt cho mình để gọi cho đẹp. Thường thì những người thành danh (thành đạt, có tiếng tăm) thì mới đặt tên hiệu. Ví dụ: Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên hiệu là Bạch Vân Am Cư Sĩ . Phùng Khắc Khoan (1528-1613), tục gọi là Trạng Bùng, là nhà thơ Việt Nam, làm quan cho nhà Lê trung hưng, có tên hiệu là Nghị Trai và Mai Nham Tử. Nguyễn Du (1766- 1820) có tên hiệu là Thanh Hiên..
4- Tên thụy: Thụy, thuỵ hiệu hay hiệu bụt hoặc tên hèm, tên cúng cơm là tên được đặt cho những người quá cố, thường là vua chúa, quan to trong triều. Phan Kế Bính viết trong Việt Nam phong tục: “Nhà nào có ông già bà cả gần mất, con cái vực đến chỗ chính tẩm hỏi han xem người có trăng trối những gì rồi đặt tên hiệu cho người biết.” (Sách đã dẫn. NXB Hà Nội- 1999. Trang 31)
Hiệu ở đây là thụy hiệu, hiệu bụt mà dân gian ta thường gọi là tên hèm, tên cúng cơm. Sau khi đặt tên thụy, khi đến ngày giỗ, người ta thường chỉ xướng tên thụy để mời về thụ hưởng đồ lễ con cháu cúng tế.
Nhìn chung, trong dân dã thường chỉ có tên húy (tên tục, tên thường gọi). Còn tên tự, hiệu, thụy là tên mà các nhà quyền quý, quan lại, trí thức mới đặt. Và trong số này, không phải ai cũng có đầy đủ tên tự, hiệu, thụy. Nhưng, khi các ông bà, cha mẹ thường dân mất, họ cũng có thể đặt tên tự (cho nam giới), đặt tên hiệu (cho nữ giới) và tên thụy để ghi vào bản các ngày giỗ hay ghi vào gia phả như ở phần trên tôi đã giới thiệu.
Thanh Hóa, ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu (2023) sau ngày giỗ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm
Chữ Nghĩa Trong Bia Mộ Ở Xứ Quảng
Nhiều năm gần đây, với sự gia tăng thu nhập, nhiều người đã góp tiền của để cùng họ tộc xây dựng nhà thờ, tu bổ mồ mả và nhiều cơ sở thờ tự khác. Cùng với sự phong phú về vật liệu kiến trúc, các tiến bộ kỹ thuật vi tính đã được tận dụng để làm đa dạng thêm hình thức văn khắc trên bia, mộ; nhờ đó, nhiều nội dung tưởng nhớ và ngợi ca người đã khuất đã được đưa vào văn bia, bài minh, trụ biểu… ở mồ mả, song trong đó có không ít những điều cần bàn.
Một tấm bia “chữ vỏ đậu” có hiệu Việt cố trên một ngôi mộ ở chúng tôi Kỳ.
Bia mộ xưa
Các kiến trúc mộ (vôi) xưa nhất của người Việt hiện còn trên đất Quảng Nam được lập vào khoảng đầu thế kỷ 17 – tương ứng với thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng vào dựng nghiệp ở vùng Thuận Quảng. Các mộ vôi ấy được xây bằng vôi bồ ghè – một hỗn hợp mà theo lời truyền từ xưa là được trộn bằng vôi, cát và nhớt bời lời. Không kể các lăng mộ người trong gia đình các chúa Nguyễn và một số quan lớn, các kiến trúc mộ còn lại thường đơn giản: gồm một nấm hình ô van được bao quanh bằng một huynh mộ hình móng ngựa mở ra trước chân mộ thành hình cuốn thư. Đó là cách kiến trúc đơn giản, phù hợp với sự thô ráp của vật liệu; do vậy ít thấy khắc chìm hoặc đắp nổi các câu đối có nội dung tưởng niệm. Bù lại, các tấm bia này thường rất bền chắc, qua hàng trăm năm vẫn còn rõ chữ, một phần do chất liệu đá được chọn rất tốt, phần khác do chữ khắc rất sâu vào bia. Chữ nghĩa trên bia mộ xứ Quảng vào các thế kỷ 17, 18 thường ít phô trương, chỉ cốt ghi lại một số thông tin cơ bản về người đã khuất. Các tấm bia này thường ghi hai chữ “Tống Sơn” hoặc “Việt cố” ở đầu nội dung.
Bia mộ ghi chữ Tống Sơn (宋山) là mộ của các viên chức, quan lại – (có thể đoán đó là) những người ở vùng Tống Sơn – Thanh Hóa theo chúa Nguyễn vào Đàng Trong dựng nghiệp. Bia mộ ghi chữ Việt cố (越故 – người nước Việt đã khuất) được lập thời Gia Long – khi xưng quốc hiệu là Việt Nam – có kiến trúc nhiều chi tiết hơn và bia mộ cũng nhiều chữ hơn; có khi khắc cả câu đối ở hai bên thân bia – cá biệt có bia mộ Việt cố được khắc kiểu chữ nổi thường được gọi là kiểu chữ vỏ đậu. Nội dung văn khắc trên các bia mộ loại này thường giản dị; chỉ cốt sao thể hiện những thông tin tối thiểu về quê quán, tên húy, tên hiệu, tên để thờ (thụy hiệu) của người trong mộ, hướng mộ và thời điểm dựng bia cũng như tên con cháu lập bia mộ.
Đến thời vua Minh Mạng (1820 – 1840), cùng với việc xưng quốc hiệu là Đại Nam, các bia mộ cũng được đổi tên thành Nam cố (南故) thời kỳ đầu hoặc Đại Nam (大南) từ giữa thế kỷ 19 về sau. Các mộ và bia mộ thời kỳ này thường bề thế hơn do vật liệu xây dựng đã được cải tiến đáng kể. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa Nho giáo, các nội dung văn khắc trên bia mộ xứ Quảng – cũng như cả nước – đã phong phú hơn nhiều. Trong quá trình sưu khảo văn bia thời kỳ này ở nam Quảng Nam, chúng tôi đã tìm thấy nhiều câu đối được viết rất hàm súc – trong đó có vận dụng nhiều thành ngữ, điển cố hàm chứa nhiều tầng nghĩa rất sâu. Cá biệt, do con cháu đang làm quan hoặc đang là địa chủ, nhà buôn khá giả, nên đã lập nhiều mộ, bia có bài minh rất dài được khắc trên các tấm bia lớn ở đầu mộ nhằm xưng tụng đạo đức và năng lực người đã khuất với lời lẽ thống thiết và hoa mỹ. Ví dụ như tấm bia mang nội dung khóc mẹ (hiện còn ở huyện Phú Ninh) của ông Phan Văn Xưởng – người xã Khánh Thọ, huyện Hà Đông xưa. Ông này đỗ cử nhân từ năm 18 tuổi, khi còn trẻ đã từng giữ chức quan rất quan trọng (ngự sử thời vua Thiệu Trị). Bài văn khóc mẹ này đã được ông tiến sĩ Nguyễn Tường Phổ – một người hay chữ ở vùng Hội An xưa “duyệt chính”. Điều đó cho thấy: thời thịnh của Nho học, việc nhờ người có khoa bảng cao “xem và duyệt lại” nội dung chữ nghĩa trong văn không chỉ dừng ở những sáng tác văn chương trên giấy mà còn ở cả văn khắc trên bia nữa.
Bia mộ gần đây
Nửa đầu thế kỷ 20, sau khi bãi bỏ khoa cử chữ Nho, chữ Quốc ngữ được dùng rộng rãi. Nhưng hầu hết nội dung văn khắc trên bia vẫn dùng chữ Nho để thể hiện - một phần do truyền thống vốn có từ lâu đời, phần khác xuất phát từ việc những người chuyên viết giúp văn bia vẫn chưa thoát ly được nền nếp của việc học cũ. Việc chữ Quốc ngữ được dùng rộng rãi để viết văn bia chỉ từ tháng 8.1945 về sau. Tuy vậy vẫn còn nhiều bia mộ dùng chữ Nho – nhất là các bia được trùng tu theo nội dung cũ. Cùng với đó, việc viết các câu đối trên bia, mộ đã dần chuyển sang nội dung “thuần Việt”. Ví dụ, mộ một vị cao đời thuộc tộc Nguyễn ở gần nghĩa địa Gò Trầu (thôn Bích Ngô, xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành) có tấm bia xi măng được lập đầu thập niên 1960 với bài minh viết bằng chữ Nôm cùng hai câu đối ghi bằng Quốc ngữ giản dị mà đầy ý nghĩa: 1/ Một nấm giữa trời ghi sự tích/ Trăm năm trong họ rõ nguồn cơn. 2/ Bia khắc rõ ràng trên đất Bích/ Khói hương nghi ngút dưới trời Ngô (tên địa phương Bích Ngô được dùng ở hai từ cuối của các vế đối). Bia đúc xi măng và nội dung thể hiện bằng chữ Quốc ngữ là đặc điểm của bia mộ ở Quảng Nam ở thời kỳ này.
Gần đây, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sự trở lại của việc sử dụng bia đá (Non Nước, Thanh Hóa…) cùng với kỹ thuật ốp đá granit trên mộ và kỹ thuật chế bản vi tính bằng bộ gõ tự dạng chữ Hán – Nôm đã đưa vào các nghĩa địa nhiều kiến trúc bia mộ tân kỳ, hoành tráng – nhiều khi rất phô trương – không chỉ ở kiến trúc mà còn ở nội dung chữ nghĩa. Khuynh hướng thể hiện văn bia bằng tự dạng chữ ô vuông (chữ Nho, chữ Nôm) trong nội dung văn khắc ở bia mộ – đặc biệt ở những ngôi mộ xưa được trùng tu – đang được dùng khá nhiều. Đang có xu hướng “mến mộ” việc dùng chữ Nho vào việc khắc các câu đối trên bia, mộ; điều đó có thể dẫn đến những điều không tiện: Hiện nay, người biết chữ Nho không nhiều, người có thể viết câu đối chữ Nho sao cho có nét riêng càng hiếm. Vì thế, việc dùng các câu đối trong các tuyển tập câu đối bán khá nhiều ngoài hiệu sách và đăng tràn lan trên internet đã dẫn đến tình trạng lạm dụng câu đối và văn bia chữ Nho ở nhiều nghĩa địa; đi đâu cũng gặp nhiều câu na ná nhau – trong đó có nhiều câu “sáo ngữ”. Đó là chưa kể, nhiều người “cho chữ” khả năng không cao, lại thêm nhiều thợ làm bia mộ kiêm luôn nghề chế bản văn bia, khi gõ chữ Nho, chữ Nôm – do không rành tự dạng và nghĩa của từ – đã gõ và khắc sai tự dạng trầm trọng khiến cho nhiều nội dung thờ tự, tôn vinh đã không được thể hiện đúng như mong muốn của người “xin chữ” để dựng bia, xây mộ.
Thiết nghĩ, việc khắc bia mộ bằng tiếng Việt với nội dung nêu những thông tin chính về người đã khuất là việc đáng làm; nếu muốn thể hiện thêm các câu đối, cũng nên viết bằng tiếng mẹ đẻ. Nếu ưng dùng câu đối có tự dạng “chữ ô vuông” cho đẹp thì viết câu đối tiếng Việt và thể hiện bằng tự dạng chữ Nôm. Điều đó không hề khó đối với những người có học hành và biết kỹ thuật vi tính.
PHÚ BÌNH
Cách Viết Chữ Bia Mộ, Lăng Mộ Theo Phong Thủy.
Cách viết chữ bia mộ, lăng mộ theo phong thủy. Kích thước bia mộ phong thủy và đủ các trò dối trá. Làm bia mộ theo phong thủy nói riêng, và tất cả các loại hình phong thủy nói chung giờ như một vấn nạn của văn hóa, nó bao phủ sự mê mờ cho những người cả tin, không chỉ nghe lời những ông thầy phong thủy phán họ tin, có những bài viết về phong thủy của những người không phải thầy phong thủy, họ vẫn tin. Trên nhiều trang phong thủy tư vấn kích thước nội dung bia mộ, hoành phi câu đối sai be bét, sai từ văn tự, từ cấu trúc, đến sai đơn âm tiết, đa âm tiết, sai cả các bảng tính tuổi, bảng can chi, điều đáng tiếc là sai cả nội dung, nhất là nội dung trên các lăng thờ. Nhiều các lăng thờ, lầu thờ được tạc chữ bằng đá nguyên khối rất nhiều tiền mà sai cả nội dung ngữ nghĩa. Nhưng hầu hết là sai khi đặt không đúng vào lăng thờ, có nhiều bộ chỉ sử dụng ở đền điện, gia tiên, tang lễ, từ đường thì lại đi đặt vào lăng mộ của tiểu chi dòng họ, đã tạo nên sự lộn xộn bừa bãi và sai văn phạm, thật chớ trêu tác giả nọi dung đó lại đều từ các ông thầy phong thủy, họ đã sao chép trên mạng bừa bãi, và sai nhưng không biết mình sai. Nội dung trên bia mộ, lăng mộ phải hợp hay đúng với ngữ cảnh. Hầu hết người ta nhầm chữ trên lăng thờ với hoành phi trướng điếu tang lễ. Vậy nội dung ghi hoành phi trướng điếu tang lễ và lăng mộ như thế nào? Tang lễ thường mang không khí bi ai thương tiếc, cũng mang tính chất nghiêm trang, trang trọng. Tất nhiên trong tang lễ thường không thể thiếu được những bức trướng hay dòng chữ bày tỏ lòng thương tiếc với người đã khuất. Cho đến nay phong tục này vẫn còn được tiếp nối. Chữ viết có thể dùng chữ Hán, chữ nôm, chữ quốc ngữ, nội dung thường là bày tỏ thương tiếc với người đã khuất và sự biết ơn của cháu con đối với tiền nhân. Thường được viết bằng chữ trắng bày tại linh sàng hoặc gian nhà nơi đặt linh vị của người quá cố. Tùy từng vào lăng thờ, lăng mộ khác nhau mà chọn những nội dung khác nhau, ví dụ như lăng mộ tổ, thủy tổ, như lăng thờ của dòng tộc, chi họ, các ngánh nhành mà sử dụng nội dung khác nhau. Mộ tổ họ Nguyễn, chi II. (có chi thì ghi chi, có ngành thì ghi ngành) Hoàng tộc chi lăng mộ (Mộ tổ họ Hoàng) Tùy theo từng lăng mộ cụ thể mà ta soạn chữ Do tính chất trang trọng của không gian thờ cúng, nhất là lăng mộ chúng ta nên cẩn thận hoặc có thể tham khảo nghe tư vấn chuyên về câu đối hán nôm qua số điện thoại sau: 0986159457. Trình tự viết chữ tốt nhất là theo quy ước cũ, tức từ phải sang trái, bên dưới bức hoành bằng đá thường có dòng lạc khoản đề thời gian lập, hoặc tôn tạo, hoặc tên tuổi con cháu cũng dâng. Âm đức bất vong (âm đức không quên) Lưu danh hậu thế (lưu danh đời sau) Âm dung uyển tại (giọng nói, dáng hình như vẫn còn đây) Ai tích vô biên (vô cùng thương tiếc) Cần lao nhất sinh (một đời vất vả) Đăng cực lạc quốc (về miền cực lạc) Điển hình uyển tại (khuân mẫu như vẫn còn đây) Đức lưu quang (đức độ tỏa sáng) Ẩm hà tư nguyên ( uống nước nhớ nguồn) Hữu khai tất niên (Có được mở mang là nhờ tổ tiên) Quang tiền dụ hậu (Làm rạng rỡ đời trước, để phúc lại cho đời sau) Hoặc dựa vào đặc trưng của từng dòng họ, từng ý niệm của cá nhân hay người quá cố, mà ta dùng chữ. Đây là nội dung mang bản sắc văn hóa tốt đẹp mà bao đời cha ông để lại, chúng ta đời này còn được ăn học nhiều hơn, nên có tri kiến tư duy hiểu biết để sao có ý nghĩa, chứ đừng vội nghe thầy phong thủy phán bừa, mà sai nọ chồng lên sai kia. Khi mọi sự thưa thấu đáo hãy nhờ tư vấn từ số điện thoại: 0986159457 hoặc trang chúng tôi để biết thêm chi tiết.
Khắc Bia Mộ Có Ảnh, Bia Mộ Chữ Hán Đẹp Nhất Tại Hà Nội.
30 năm đam mê khắc bia mộ, và phụng sự khách hàng như tuyệt đối. Khắc bia mộ Hà Nội vẫn hết lòng cống hiến, tạo ra những cốt lõi và giá trị tâm linh từ bằng nhiệt huyết đam mê và khiêm tốn.
Quý khách không phải chi trả bất kể điều gì nếu quý vị cảm thấy chưa hài lòng với những tấm bia mộ do chúng tôi tạo ra. Đây là điều khác biệt hoàn toàn với bất kể thợ điêu khắc bia mộ nào, với những lời cam kết uy tín nặng kí nhất. Chúng tôi cũng rất có thể từ chối với những khách hàng cạy đồng tiền, hoặc có những yêu sách cùng lời nói khiếm nhã. Chuyên khắc câu đối đá, câu đối lăng mộ, câu đối ban thờ gia tiên hoặc tiểu chi. Viết chữ Hán cổ, soạn thảo nội dung, cho nội dung làm câu đối lăng mộ, bao gồm cả âm hán, âm việt, dịch nghĩa, dịch thơ đầy đủ. – Quý khách ở trên mọi miền đất nước có thể yêu gửi yêu cầu qua email, facebook về việc viết chữ Hán Nôm hoặc điện thoại theo số:
0983798098 – 0399383888
chúng tôi sẽ nhanh chóng trả lời và gửi lại sản phẩm. Chúng tôi thi công lắp dựng từ các cột trụ bằng đá cho tới các loại bia mô, ảnh mộ trên đá Granite. Đương nhiên đối với các công trình lớn, sản phẩm nhiều chi tiết phải mất nhiều thời gian có thể từ 1 tháng đến vài tháng. KHẮC BIA MỘ HÀ NỘI Địa chỉ giao dịch duy nhất LH:1162 Đường Láng -Đống Đa-Hà Nội Điện thoại: :
0983798098 – 0399383888
Facebook: Khắc Bia Mộ Hà Nội. Email: khacbiamohn@gmail.com
Khắc bia mộ chữ nổi đá granite – Là đỉnh cao của điêu khắc trên đá – Độ bền hàng trăm năm - Có vể đẹp hoài cổ – độc quyền chỉ có ở khacbiamohanoi.com
Quý khách không phải chi trả bất kể điều gì nếu quý vị cảm thấy chưa hài lòng với những tấm bia mộ do chúng tôi tạo ra. Đây là điều khác biệt hoàn toàn với bất kể thợ điêu khắc bia mộ nào, với những lời cam kết uy tín nặng kí nhất. Chúng tôi cũng rất có thể từ chối với những khách hàng cạy đồng tiền, hoặc có những yêu sách cùng lời nói khiếm nhã.Chuyên khắc câu đối đá, câu đối lăng mộ, câu đối ban thờ gia tiên hoặc tiểu chi.Viết chữ Hán cổ, soạn thảo nội dung, cho nội dung làm câu đối lăng mộ, bao gồm cả âm hán, âm việt, dịch nghĩa, dịch thơ đầy đủ.– Quý khách ở trên mọi miền đất nước có thể yêu gửi yêu cầu qua email, facebook về việc viết chữ Hán Nôm hoặc điện thoại theo số:chúng tôi sẽ nhanh chóng trả lời và gửi lại sản phẩm.Chúng tôi thi công lắp dựng từ các cột trụ bằng đá cho tới các loại bia mô, ảnh mộ trên đá Granite. Đương nhiên đối với các công trình lớn, sản phẩm nhiều chi tiết phải mất nhiều thời gian có thể từ 1 tháng đến vài tháng.Ngoài ra các bạn có nhu cầu dùng chữ Đại Tự, Hoành phi, Câu đối tại gia tiên dòng họ, hoặc cần viết chữ Thư pháp, Tranh Thư pháp treo trang trí trong văn phòng công ty, phòng làm việc tại cơ quan, Tranh chữ Hán trang trí phòng khách trên nhiều chất liệu giấy cổ, câu đối giáo huấn, hứng khiển…các bạn vui lòng liên hệ cho chúng tôi theo địa chỉ:Địa chỉ giao dịch duy nhất LH:1162 Đường Láng -Đống Đa-Hà NộiĐiện thoại: :Facebook: Khắc Bia Mộ Hà Nội.Email: khacbiamohn@gmail.com
Hướng Dẫn Viết Chữ Trên Bia Mộ, Lăng Mộ.
HƯỚNG DẪN VIẾT CHỮ BIA MỘ – LĂNG MỘ Phần trước chúng tôi đã hướng dẫn cho các bạn cách tính phong thủy theo tuổi cho người đã mất, cách cúng cha mẹ, tổ tiên và trong tang lễ, phần này chúng tôi hướng dẫn tiếp cho các bạn cách viết chữ đề trên lăng mộ, bức đại tự, cuốn thư hay câu đối, để khi làm bia mộ hay chữ trên lầu thờ các bạn có tư liệu hơn. và bổ sung các quy định về tuổi cho người đã mất. Thứ nhất; lầu thờ trong lăng phải căn cứ tám chữ: TÀI, LỘC, LY, NGHĨA, QUAN, KIẾP, HẠI, BẢN Rơi vào một trong các chữ tài, lộc, nghĩa, quan, bản , là được Rơi vào chữ lộc là tốt Cấm kị rơi vào chữ, ly, kiếp, hại. Ví dụ; ( có 10 chữ rơi vào chữ lộc 0 ) Bức đại tự trên lăng cũng căn cữ tám chữ: TÀI, LỘC, NGHĨA, QUAN, KIẾP, HẠI, BẢN. Rơi vào một trong chữ, TÀI, LỘC,, NGHĨA, QUAN, BẢN là được Cấm kị rơi vào chữ ly, kiếp, hại Ví dụ: ( có 5 chữ rơi vào chữ Quan )
Phúc tinh triều vính xán nghĩa là sao phúc trên trời luôn chiếu sáng cho con cháu.
Người mất trên 50 tuổi: Nam: phúc, Nữ; từ Quy phật: diệu: Ví dụ: Trần văn A mất dưới 50 tuổi:….khảo. Trần trực húy văn A. Phủ quân Nguyễn thị B, mất dưới 50 tuổi…tỉ….môn chính thất Nguyễn thị thục B Đỗ văn c, mất trên 50 tuổi….khảo; Đỗ phúc húy văn C, phủ quân Vũ thị H, mất trên 50 tuổi;…tỷ…môn chính thất Vũ thị từ H Nguyễn thị K có quy phật…tỷ…môn chính thất Nguyễn thị K, hiệu diệu…nhụ nhân Lê thị H mất trên 50 tuổi…tỷ…trưởng…môn trắc thất….Lê thị hàng nhất hiệu từ H, chú thích: họ của chồng).. Nhụ nhân là vợ con nhà quan, trưởng là con trai trưởng, hàng nhất là con thứ nhất, hàng nhị là con thứ hai, hàng tam là con thứ ba…của gia đình bố mẹ đẻ ra người con gái đó. Trắc thất là kế ba, á thất là kế hai, chính thất là vợ cả. Từ 1 đến 10 tuổi là: Đào hoa Từ 11 đến 20 tuổi là; Thanh Xuân Từ 21 đến 30 tuổi là: Xuân quang Từ 31 đến 40 tuoir là: Dương quang Từ 41 đến 50 tuổi là: Thu sương Từ 51 đến 60 tuổi là: Dương linh……Thọ kì lão Từ 61 đến 70 tuổi là: Linh………….. Hạ thọ lão Từ 71 đến 80 tuổi là: Hà Linh……. . Trung thọ lão Từ 81 đến 90 tuổi là: Thọ lão………Thượng thọ lão Từ 91 đến 100 tuổi là: Kỳ di………. Thượng thượng thọ lão Từ 100 tuổi trở lên là: ………………Đại thọ lão Trẻ 3 tháng mất: không tang, không khóc Trẻ 7 tuổi mất: không tang Trẻ đã thành nhân hoặc đồng tử ( chết theo mẹ ) gọi là: Thương Trẻ từ 8 đến 11 tuổi mất gọi là: Hà thương Trẻ từ 12 đến 15 tuổi gọi là: Trung thương Trẻ từ 16 đến 19 tuổi mất gọi là: Trưởng thương Người có con trai dùng chữ ( phụ quân ) Vợ thờ chồng dùng chữ ( phu quân) Không có vợ hoặc con trai dùng chữ ( Phủ quân 0- Nhưng nói chung thường là dùng chữ Phủ quân. Các bạn cần hỗ trợ tư vấn thêm thì liên hệ theo số: 0906.256.066 gửi thư theo: binhbiamo@gmail.com/ binhbiamo.com Mẫu mộ bia đá đẹp, cách khắc bia mộ, giá bia mộ, đặt làm bia mộ ở hà nội, báo giá khắc bia mộ, giá khắc bia mộ, khắc bia mộ ở đâu, bia mộ đẹp, khắc bia mộ tại tphcm. Làm bia mộ có ảnh, giá bia mộ bằng đá, khắc bia mộ đẹp, hình bia mộ, làm ảnh trên bia mộ, cách làm ảnh bia mộ, hình ảnh bia mộ, hình ảnh bia mộ đẹp. báo giá bia đá, mẫu bia mộ đá đẹp, báo giá làm bia mộ đá. Bia mộ đẹp, khắc bia mộ. Cách khắc bia mộ, khắc bia mộ đẹp, cơ sở khắc bia mộ, lăng mộ công giáo, hoa văn công giáo, lăng mộ đá công giáo, các kiểu mộ đá hoa cương, mẫu mộ đao, mẫu bia mộ công giáo, mẫu bia mộ công giáo đẹp, mộ người công giáo, mộ đạo công giáo, mộ đá công giáo, mẫu mộ công giáo đẹp, các kiểu mộ công giáo, mẫu bia mộ corel, mộ thiên chúa giáo Giá bia mộ đá, font chữ bia mộ, xin mẫu bia mộ, các mẫu bia mộ đẹp, mẫu bia mộ đẹp vector, mẫu hoa văn bia mộ, download mẫu bia mộ đẹp corel, mẫu hoa văn bia mộ, mẫu bia mộ đẹp vector, các mẫu bia mộ đẹp ĐT: 0906.256.066 – 0987135.472
Một Số Thành Ngữ Việt Nam Tương Đương Thành Ngữ Trung
List chỉ nhằm mục đích thuận tiện cho cái trí nhớ hạn hẹp của bản thân, không gì hơn. À không, còn có một mục đích là: Nhờ ai vô tình ghé qua, nếu có thấy thành ngữ tương đương nào thì giúp với
Tham khảo một số thành ngữ Trung ở đây và đây và đây và đây và đây…
AAn cư lạc nghiệp: Nghĩa: Có chỗ ở yên ổn thì việc làm mới ổn định. Thành ngữ này đã thành thành ngữ Việt, chẳng cần tìm thành ngữ khác
An thân thủ phận: An phận thủ thường (Đây là thành ngữ Hán Nôm, tức là từ thành ngữ Hán, bị bẻ, chuyển đổi ngôn ngữ một chút
Anh hùng nan quá mỹ nhân quan: Anh hùng khó qua ải mỹ nhân (Đây là thành ngữ hán, dịch sang Việt)
Ám độ Trần Thương: (Nghĩa: Ngầm Vượt Trần thương, một trong 36 kế của Binh Pháp Tôn Tử, vờ tấn công mặt chính đối phương, khi chúng tập trung phòng thủ trước mặt thì vòng ra sau để tấn công.) Giương đông kích tây
B
Bạch diện thư sinh: Nghĩa – Thư sinh mặt trắng. Tương tự: Học trò dài lưng tốn vải
Bách chiến bách thắng: Trăm trận trăm thắng
Bách niên giai lão: Trăm năm hạnh phúc, Đầu bạc răng long
Bán thân bất toại: Bệnh liệt nửa thân không thể cử đông
Báo đức thù công: Đền ơn đáp nghĩa
Bão noãn tư dâm dật [] No cơm ấm cật thì dậm dật khắp nơi
Bát can tử đả bất trứ [八竿子打不着]: Bắn đại bác cũng không tới
Bất cộng đái thiên: Không đội trời chung
Bất kiến quan tài, bất lưu nhân lệ: Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ (thành ngữ dịch)
Bất thính lão nhân ngôn, cật khuy tại diện tiền: Không nghe lời người lớn tuổi, sẽ gặp tai họa ngay. Tương đương Cá không ăn muối cá ươn
Bệnh cấp loạn đầu y [病急乱投医]: Có bệnh thì vái tứ phương
Biệt ngôn chi quá tảo [别言之过早]: Nói trước bước không qua; Ba mươi chưa phải là tết
Bổn khẩu chiết thiệt [笨口拙舌]: (Nghĩa: Miệng ngốc, lưỡi vụng về. Ăn nói vụng về): Ăn không nên đọi, nói không nên lời.
CCao chẩm vô ưu: Chẳng lo lắng sự gì; Kê cao gối ngủ; Bình chân như vại
Cật nhân chủy nhuyễn, nã nhân thủ đoản = (hay) Cật nhân đích chủy nhuyễn, nã nhân đích thủ đoản = Cắn người miệng mềm, bắt người ngắn tay Nghĩa: ăn của người ta, thì nói năng với người ta cũng mềm mỏng hơn.
Có thể tương đương: Ăn cơm chúa, (phải) múa tối ngày. Ăn của chùa phải quét lá đa, Ăn xôi chùa quét lá đa.
Cật nhất oản chúc, tẩu tam lý lộ [吃一碗粥, 走三里路]: (Nghĩa là cái công được hưởng không bù lại được cái công mất đi) Ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng.
Cật nhân nhất khẩu, báo nhân nhất đấu [吃伊一口, 报伊一斗]: Ăn cám trả vàng
Cật nhất gia phạn, quản vạn gia sự [吃一家饭, 管万家事]: Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
Cật lực bái ngoái 吃力扒外 : Ăn cây táo, rào cây sung.
Con gái lấy chồng như bát nước hắt đi (Giá xuất khứ nữ nhi, bát xuất khứ đích thủy) = Mẹ kêu mặc mẹ thương chồng phải theo = Thuyền theo lái gái theo chồng
Cô thân chích ảnh: Lẻ loi chiếc bóng,
Cô thụ bất thành lâm: Một cây làm chẳng nên non
Chúng khẩu nan điều: Đông người thì khó thống nhất ý kiến. Tương đương: Lắm thầy nhiều ma
Cung kính bất như tòng mệnh: Cung kính không bằng tuân lệnh (Thành ngữ Việt, không phải dịch)
Cưu chiếm thước sào 鸠占鹊巢 (Tu hú chiếm tổ chim khách): Tu hú chiếm tổ
Tu hú là loài chim chuyên đẻ nhở các tổ chim khác như khách, chim chích,..v.v. tu hú con khỏe, dữ, có thể hất con chim con trong tổ ra để giành phần ăn từ chim bố mẹ.
Chiếu phương tử thảo dược [照方子抓药]: Bốc thuốc theo đơn
Chưởng bình hoa tuyến [掌枰划线]: Cầm cân nảy mực
D
Dạ trường mộng đa: Đêm dài lắm mộng, Thật ra đây không phải thành ngữ Việt, mà 100% thành ngữ Hán Việt, nhưng được dịch sang tiếng Việt từ lâu, cũng thuận, nên thành thành ngữ Việt.
Danh chính, ngôn thuận, sự tất thành (Việc đúng, lời nghe hợp tai, việc nhất định thành) Nói phải củ cải cũng nghe
Diệp lạc quy căn: Lá rụng về cội
Dục cầm cố túng 欲擒故纵 : (vờ tha để bắt), Lạt mềm buộc chặt
Dưỡng hổ di họa: Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà
Đồng sáng cộng chẩm: Chung chăn chung gối, Đầu ấp tay gối
Đương cuộc giả mê, bàng quan giả tỉnh: Người trong cuộc thì mơ hồ, kẻ ngoài cuộc thì rõ ràng
Đại mã kim đao 大马金刀 : Mô tả cách nói chuyện lỗ mãng, sắc nhọn hoặc hành động hùng hổ, nghiêng về hướng thô lỗ
Đại tài tiểu dụng: Giết gà bằng dao mổ trâu
Đối chứng hạ dược [对症下药]: Bệnh nào thuốc nấy
Độc thực độc sinh sang [ 独食独生疮]: Ăn độc chốc mép
Độc thực nan phì (独食难肥) nghĩa câu từ là ăn một mình thì khó béo, “ăn một mình thì đau tức, làm một mình thì cực thân”
E
F
G
Gia hỏa bất khởi, dã hỏa bất lai [家火不起, 野火不来]: Anh em khinh trước, làng nước khinh sau
Việc (xấu) không xảy ra trong nhà, thì người ngoài không có cơ hội phá hoại
Gia miếu bất linh[家庙不灵]: Bụt chùa nhà không thiêng
H
Hảo sự vô duyên (duyến), phôi sự hữu phân [好事无缘, 坏事有分]: Ăn chẳng có, khó đến phần
Hạt thuyết bát lộ, hướng bích hư tạo [瞎说八道; 向壁虚造]: (Mù mà nói chuyện tám đường, quay vào tường mà bịa đặt dối trá) Ăn ốc nói mò
Hận ngư đọa châm: Giận cá chém thớt
Hậu cố chi ưu: Ý nói nỗi lo lắng về gia đình, thân nhân, những nỗi lo lắng cá nhân sau lưng người làm việc lớn
Hổ độc bất cật tử: Hổ dữ không ăn thịt con
Hoạn lộ, họa lộ: Đường công danh là đường tai vạ
Hữu nhĩ bất đa, một nhĩ bất thiêu [有你不多, 没你不少]: Vắng mợ thì chợ vẫn đông
Hữu danh vô thực: Có tiếng mà không có miếng (miếng ở đây là bí kíp, kiểu miếng võ, không phải miếng ăn)
Hữu duyên vô phận: Có duyên không phận
I
K
Kim thương bất đảo:
Kinh nhất sự trường nhất trí: Đi một ngày đàng học một sàng khôn
Khẩu phật tâm xà: Miệng nam mô bụng một bồ dao găm
Khất cái thảo nhục tống [乞丐讨肉粽]: (Nghĩa: Ăn mày đòi bánh có thịt) Ăn mày đòi xôi gấc
Kỷ nhân ưu thiên (Người nước Kỷ lo trời sập) : Lo bò trắng răng.
L
Lạc phách phương tri cùng nhân khổ: (Nghèo túng mới biết thương đên những người cùng khổ) Ăn nhạt mới biết thương đến mèo;
Lang bạt kỳ hồ: (Nghĩa: Con sói giẫm vào cái yếm của nó, chỉ sự tự mình chuốc lấy rắc rối không biết giải quyết thế nào) Gà mắc tóc
Lang tâm cẩu phế: Lòng lang dạ sói
Ngoài ra, do sự chuyển ngữ nghĩa của thành ngữ hán này trong tiếng Việt, hầu hết mọi người đều coi nó có nghĩa là lang thang vô định, phiêu bạt. Việt Nam có thành ngữ chỉ sự lang thang vô mục đích đó là “Ăn quán ngủ đình”
Liệt hỏa thí kim, gian nan thí đức: Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Thành ngữ Việt là như vậy, nhưng để khớp nghĩa, thay “sức” bằng “đức”
M
Mi lai nhãn khứ (mày đi mắt lại): Dùng ánh mắt để tỏ ý ngầm với nhau. Đôi lúc có thể hiểu là Liếc mắt đưa tình.
Mộc hữu bản, thủy hữu nguyên [木有本, 水有源]: Cây có cội, nước có nguồn
N
Nhân họa đắc phúc (因祸得福): Gặp dữ hóa lành, Trong cái rủi có cái may
Nhất bản vạn lợi: Một vốn bốn lời
Nhất gia phạn, quản vạn gia sự [吃一家饭, 管万家事]: Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng
Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh: Giỏi một nghề thì thân được sung sướng , có thể gần với “Một nghề mà chín còn hơn chín nghề“
Nhược nhục cường thực: Cá lớn nuốt cá bé
Niên ấu vô tri: Trẻ người non dạ
Nghĩa bất dung tình: Vì nghĩa quên thân (Thân ở đây là thân nhân, không phải thân mình)
Nữ đại bất trung lưu (Con gái lớn không thể giữ trong nhà): Con gái là con người ta
O
P
Phóng thủ nhất bác: Thoải mái làm việc, Tiện tay hành động, Rộng chân rộng cẳng, Rộng cẳng bay nhảy(Rộng cẳng bay nhảy nghĩa có chút khác, mang chút hàm ý ích kỷ, và rong chơi, trong khi Phóng thủ nhất bác có ý nghĩa nghiêm túc hơn)
Phi tộc ta loại kỳ tâm tất dị (Không phải cùng dòng giống với ta tất lòng sẽ khác): Khác máu tanh lòng
Q
Quang cước bất phạ xuyên hài (Chân đất không sợ đi giày): Được ăn cả, ngã vể không. Bên Tàng Thư Viện dịch là Vua cũng thua thằng liều, nhưng mình nghe không hợp lắm. Nếu dịch đúng nghĩa, phải là: “Có thằng nào sợ nhà nhiều tiền đâu”
S
Sát kê thủ noãn: Giết gà lấy trứng; Ăn xổi ở thì
Sĩ khả sát nhi bất khả nhục (Kẻ sĩ chỉ có thể chết chứ không thể chịu nhục): Chết vinh còn hơn sống nhục
Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên: Sinh tử có số, phú quý tại trời (Thành ngữ dịch)
Sinh úy tử quy: Sống gửi thác về
T
Thông minh ngược lại bị thông minh hại: Khun (Khôn) quá hóa ngu.
Tiền đột hậu kiều: Ngực tấn công mông phòng thủ
Tiểu thì bất giáo, đại thì bất tiếu [小时不教, 大时不肖]: Bé không vin, gãy cả cành; Bé ăn cắp lớn ăn cướp ; Dạy con từ thủa còn thơ;
Thiên nhai hải giác: Chân trời góc bể
Thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân: Nghĩa là, trên trời còn có trời, trên người còn có người. Tương đương Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Thiên lý lương tâm, đáo xử thông hành [天理良心, 到处通行]: (Nghĩa: Làm đúng theo lương tâm, theo lẽ trời, thì việc gì cũng thông thuận) Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành
Thiên toại nhân nguyện: Trời chiều lòng người (Cái này hình như không phải tục ngữ, nhưng đưa vào vì rất thuận mồm)
Thiên lý chi đê, hội vu nghĩ huyệt [千里之堤, 溃于蚁穴]: Con đê ngàn dặm tất có tổ kiến ; Ngọc còn có vết ; Cái sảy nảy cái ung
Thiên lý tống nga mao, vật khinh tình ý trọng: Ngàn dặm gửi tặng một chiếc lông ngỗng, vật chẳng đáng gì, chỉ có tình là sâu. Của ít lòng nhiều
Thiêu phì giản sấu: Kén cá chọn canh
Thủy trung lao nguyệt: Mò trăng đáy nước
Thù lưỡng tất xưng: Kẻ tám lạng, người nửa cân (Tám lạng xưa bằng nửa cân)
Thực phạn bất vong chủng điền nhân : Nghĩa – Ăn cơm không được quên người làm ruộng. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Ăn một bát cơm nhớ người cày ruộng,
Thực tu tế tước, ngôn tất tam tư [食须细嚼, 言必三思] : Ăn có nhai, nói có nghĩ
Trạch thiện nhi tòng [择善而伊]: Chọn thiện mà theo
Tri kỉ tri bỉ: Biết người biết mình
Tú chẩm hoa đầu (Gối thêu hoa): Có thể tương đương Bình hoa di động, Giá áo túi cơm, Công tử bột
Tử bất cải hối [死不改悔]: Cà cuống chết đến đít còn cay; Sống chết không thay đổi
Tỷ tỷ bất giá, đam các liễu muội muội [姐姐不嫁, 耽搁了妹妹]: Con chị chưa đi, con dì nó lỡ
U
V
Vô công bất thụ lộc: Có làm mới có ăn
Vô phong bất khởi lãng: Không có gió không thành sóng Không có lửa làm sao có khói
Vô sự bất đăng tam bảo điện: Không có việc gì thì không đến tòa tam bảo (chùa):
XXuy mao cầu tỳ [吹毛求疵]: Bới lông tìm vết; Vạch lá tìm sâu
Xuy sa tác phạn [炊沙作饭]: Bắt cóc bỏ đĩa: Công dã tràng
Mạt cưa mướp đắng: Phường trộm cướp, lừa đảo lại gặp nhau
Khác máu tanh lòng
Thương ngài hại mình (Thương ngài hại mềnh)
Thương chồng nấu cháo Cu cu
Chồng ăn chồng đụng như tru (trâu) phá ràn
Thương không có xương mà cạp
Sạch nước cản: Chơi cờ bạc giỏi đến độ biết hết mọi đường, nước cờ. Có nghĩa là sành việc đời
Quyền thằng hủi: Người hủi thường bị rụng ngón, không có quyền (nắm đấm). Chê trách kẻ vô dụng nhưng lại giữ chức vụ quan trọng.
Cà cuống chết đến đít còn cay: Nghĩa như thế
Chia sẻ:
Số lượt thích
Đang tải…
Cập nhật thông tin chi tiết về Giải Thích Một Số Từ Ngữ Thường Dùng Trong Gia Phả, Bia Mộ … trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!