Bạn đang xem bài viết Gợi Ý Viết Văn Nghị Luận Xã Hội được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Dạng đề nghị luận xã hội là dạng đề kiểm tra về kỹ năng, vốn sống, mức độ hiểu biết của học sinh về xã hội để các em nêu lên những suy nghĩ về cuộc sống, về tâm tư tình cảm nói chung nhằm giáo dục, rèn luyện nhân cách cho học sinh. Nhìn chung, dạng đề văn nghị luận xã hội thường tập trung vào một số vấn đề cơ bản mang giá trị đạo lý làm người, những hiện tượng thường xảy ra trong xã hội mà qua đó trở thành kinh nghiệm sống cho mọi người.
I. CÁC DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI THƯỜNG GẶP 1. Nghị luận về một hiện tượng đời sống
– Hiện tượng có tác động tích cực đến suy nghĩ ( tiếp sức mùa thi, hiến máu nhân đạo…).
– Hiện tượng có tác động tiêu cực ( bạo lực học đường, tai nạn giao thông…).
– Nghị luận về một mẩu tin tức báo chí ( hình thức cho một đoạn trích, mẩu tin trên báo… Rút ra vấn đề nghị luận).
2. Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
– Tư tưởng mang tính nhân văn, đạo đức ( lòng dũng cảm, khoan dung, ý chí nghị lực…).
– Tư tưởng phản nhân văn ( ích kỷ, vô cảm, thù hận, dối trá …).
– Nghị luận về hai mặt tốt xấu trong một vấn đề.
– Vấn đề có tính chất đối thoại, bàn luận, trao đổi.
– Vấn đề đặt ra trong mẩu truyện nhỏ hoặc đoạn thơ.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý KHI LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN 1. Đọc kỹ đề
– Mục đích: Hiểu rõ yêu cầu của đề, phân biệt được tư tưởng đạo lý hay hiện tượng đời sống.
– Phương pháp xác định: Đọc kỹ đề, gạch chân dưới từ, cụm từ quan trọng để giải thích và xác lập luận điểm cho toàn bài. Từ đó có định hướng đúng mà viết bài cho tốt.
2. Lập dàn ý
– Giúp ta trình bày văn bản khoa học, có cấu trúc chặt chẽ, hợp logic.
– Kiểm soát được hệ thống ý, lập luận chặt chẽ, mạch lạc.
– Chủ động dung lượng các luận điểm phù hợp, tránh lan man, dài dòng.
3. Dẫn chứng phù hợp
– Không lấy những dẫn chứng chung chung ( không có người, nội dung, sự việc cụ thể) sẽ không tốt cho bài làm.
– Dẫn chứng phải có tính thực tế và thuyết phục ( người thật, việc thật).
– Đưa dẫn chứng phải thật khéo léo và phù hợp ( tuyệt đối không kể lể dài dòng).
3. Lập luận chặt chẽ, lời văn cô động, giàu sức thuyết phục
– Lời văn, câu văn, đoạn văn viết phải cô đúc, ngắn gọn.
– Lập luận phải chặt chẽ.
– Cảm xúc trong sáng, lành mạnh.
– Để bài văn thấu tình đạt lý thì phải thường xuyên tạo lối viết song song ( đồng tình, không đồng tình; ngợi ca, phản bác …).
4. Bài học nhận thức và hành động
– Sau khi phân tích, chứng minh, bàn luận… thì phải rút ra cho mình bài học.
– Thường bài học cho bản thân bao giờ cũng gắn liền với rèn luyện nhân cách cao đẹp, đấu tranh loại bỏ những thói xấu ra khỏi bản thân, học tập lối sống…
5. Độ dài cần phù hợp với yêu cầu đề bài
– Khi đọc đề cần chú ý yêu cầu đề ( hình thức bài làm là đoạn văn hay bài văn, bao nhiêu câu, bao nhiêu chữ …) từ đó sắp xếp ý tạo thành bài văn hoàn chỉnh.
III. CẤU TRÚC ĐỀ VÀ CÁC DẠNG ĐỀ CỤ THỂ 1. Nghị luận về tư tưởng đạo lý
1.1 Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, quan điểm nhân sinh ( như các vấn đề về nhận thức; về tâm hồn nhân cách; về các quan hệ gia đình xã hội, cách ứng xử; lối sống của con người trong xã hội …).
a. Mở bài
– Giới thiệu khái quát tư tưởng, đạo lý cần nghị luận.
– Nêu ý chính hoặc câu nói về tư tưởng, đạo lý mà đề bài đưa ra.
– Luận điểm 1: Giải thích yêu cầu đề
+ Cần giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lý.
+ Giải thích các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng ( nếu có).
+ Rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng, đạo lý; quan điểm của tác giả qua câu nói ( thường dành cho đề bài có tư tưởng, đạo lý được thể hiện gián tiếp qua câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ…).
– Luận điểm 2: Phân tích và chứng minh
+ Các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý ( thường trả lời câu hỏi tại sao nói như thế?).
+ Dùng dẫn chứng xảy ra cuộc sống xã hội để chứng minh.
+ Từ đó chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống xã hội.
+ Dẫn chứng minh họa ( nên lấy những tấm gương có thật trong đời sống).
– Rút ra bài học nhận thức và hành động
+ Rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người đọc.
+ Áp dụng vào thực tiễn đời sống.
– Nêu khái quát đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lý đã nghị luận.
– Mở ra hướng suy nghĩ mới.
2. Dàn ý về dạng đề mang tính nhân văn 2.1 Khái niệm:
– Các tính nhân văn tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí nghị lực, tôn sư trọng đạo…
– Hình thức: thường ra dưới dạng một ý kiến, một câu nói, một hay vài câu thơ hoặc tục ngữ, ngạn ngữ…
a. Mở bài: Trong trường hợp là đề yêu cầu bàn về một câu nói, một ý kiến thì chúng ta nêu nội dung của ý kiến rồi dẫn ý kiến vào.
Ví dụ trường hợp đề là một bài văn nghị luận ngắn nêu suy nghĩ về một vấn đề nào đó như: Viết một bài văn nghị luận ngắn trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu nói của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm: ” Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố “.
Ta mở bài như sau:
Cuộc sống quanh ta có biết bao nhiêu là khó khăn và thử thách. Nếu chúng ta hèn nhát và yếu đuối chắc chắn sẽ gặp thất bại nhưng với ý chí và nghị lực vượt qua mọi gian khó thì con đường vươn đến thành công sẽ mở ra trước mắt. Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đã ghi lại trong những dòng nhật ký đầy máu, nước mắt và niềm tin: “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố “. Đó là giá trị chân lý sống, là con đường vươn tới tương lai.
b. Thân bài
Trong trường hợp đề chỉ yêu cầu bàn về đức tính của con người.
Ví dụ: Cho mẩu chuyện sau: ” Có một con kiến đang tha chiếc lá trên lưng. Chiếc lá lớn hơn con kiến gấp nhiều lần. Đang bò, kiến gặp phải một vết nứt khá lớn trên nền xi măng. Nó dừng lại giây lát, đặt chiếc lá ngang qua vết nứt rồi vượt qua bằng cách bò lên trên chiếc lá. Đến bờ bên kia, con kiến lại tiếp tục tha chiếc lá và tiếp tục cuộc hành trình“. Bằng một văn bản ngắn ( khoảng 1 trang giấy thi), trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa mẩu chuyện trên.
Trước hết, ta cần tìm hiểu thông điệp câu chuyện gửi đến: Những khó khăn, trở ngại vẫn thường xảy ra trong cuộc sống, luôn vượt khỏi toan tính và dự định của con người. Vì vậy, mỗi người cần phải có nghị lực, sáng tạo để vượt qua.
– Giải thích ý nghĩa truyện:
+ Chiếc lá và vết nứt: Biểu tượng cho những khó khăn, vất vả, trở ngại, những biến cố có thể xảy ra đến với con người bất kì lúc nào.
+ Con kiến dừng lại trong chốc lát để suy nghĩ và nó quyết định đặt ngang chiếc lá qua vết nứt, rồi vượt qua bằng cách bò lên trên chiếc lá. Đó là biểu tượng cho con người biết chấp nhận thử thách, biết kiên trì, sáng tạo, dũng cảm vượt qua bằng chính khả năng của mình.
– Bàn luận
+ Thực tế: những người biết chấp nhận thử thách, biết kiên trì, sáng tạo, dũng cảm vượt qua bằng chính khả năng của mình sẽ vươn đế thành công.
+ Tại sao con người cần có nghị lực trong cuộc sống?
Cuộc sồng không phải lúc nào cũng êm ả, xuôi nguồn mà luôn có những biến động, những gian truân thử thách. Con người cần phải có ý chí, nghị lực, thông minh, sáng tạo và bản lĩnh mạnh dạn đối mặt với khó khăn gian khổ, học cách sống đối đầu và dũng cảm; học cách vươn lên bằng nghị lực và niềm tin. Dẫn chứng: Lê Lợi mười năm nếm mật nằm gai đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi.
– Phê phán những quan niệm, suy nghĩ sai trái:
+ Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những người bi quan, chán nản, than vãn, buông xuôi, ỷ lại, hèn nhát, chấp nhận, đầu hàng, đổ lỗi cho số phận…. cho dù những khó khăn ấy chưa phải là tất cả.
+ Dẫn chứng ( lấy từ thực tế cuộc sống).
– Bài học nhận thức và hành động:
+ Về nhận thức: Khi đứng trước thử thách cuộc đời cần bình tĩnh, linh hoạt, nhạy bén tìm ra hướng giải quyết tốt nhất ( chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo).
+ Về hành động: Khó khăn, gian khổ cũng là điều kiện thử thách và tôi luyện ý chí, là cơ hội để mỗi người khẳng định mình. Vượt qua nó, con người sẽ trưởng thành hơn, sống có ý nghĩa hơn.
c. Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề.
– Liên hệ.
Ví dụ: Tóm lại, cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Khó khăn, thử thách, sóng gió có thể nổi lên bất cứ lúc nào. Đó là qui luật tất yếu mà con người phải đối mặt. Vì thế cần phải rèn luyện nghị lực và có niềm tin vào cuộc sống. ” Đường đi trải đầy hoa hồng sẽ không bao giờ dân đến vinh quang “.
3. Dạng đề nêu những vấn đề tác động đến việc hình thành nhân cách con người 3.1 Các vấn đề thường gặp:
– Vấn đề tích cực: tình yêu quê hương đất nước, lòng nhân ái, tình yêu thiên nhiên, ý chí nghị lực, hành động dũng cảm…
– Vấn đề tiêu cực: Thói dối trá, lối sống ích kỷ, phản bội, ghen tị, vụ lợi cá nhân…
3.2 Dạng đề
Đề thường ra dưới dạng một ý kiến, một câu nói, tục ngữ, ngạn ngữ, một mẩu chuyện nhỏ, một đoạn tin trên báo đài…
Ví dụ: Sài Gòn hôm nay đầy nắng. Cái nắng gắt như thiêu như đốt khiến dòng người chạy bạt mạng hơn. Ai cũng muốn chạy cho nhanh để thoát khỏi cái nóng. Một người phụ nữ độ tuổi trung niên đeo trên vai chiếc ba lô thật lớn, tay còn xách giỏ trái cây. Phía sau bà là một thiếu niên. Cứ đi được một đoạn, người phụ nữ phải dừng lại nghỉ mệt. Bà lắc lắc cánh tay, xoay xoay bờ vai cho đỡ mỏi. Chiếc ba lô nặng oằn cả lưng. Chàng thiếu niên con bà bước lững thững, nhìn trời ngó đất. Cậu chẳng mảy may để ý đến những giọt mồ hôi đang thấm ướt vai áo mẹ. Chốc chốc thấy mẹ đi chậm hơn mình, cậu còn quay lại gắt gỏng: “ Nhanh lên mẹ ơi! Mẹ làm gì mà đi chậm như rùa”.
( Những câu chuyện xót xa về sự vô cảm của con trẻ – http://vietnamnet.vn)
Viết văn bản ngắn ( khoảng một trang giấy thi) nêu suy nghĩ của em về hiện tượng được nhắc đến trong câu chuyện trên.
a. Mở bài
Ta có gợi ý mở bài như sau: ” Trong cuộc sống, nếu như chúng ta có sự quan tâm lẫn nhau, biết suy nghĩ về nhau thì cuộc đời sẽ đẹp biết bao. Thế nhưng, hiện nay sự thờ ơ vô cảm của giới trẻ đang xuất hiện ngày càng nhiều. Những câu chuyện xót xa về sự vô cảm của con trẻ được đăng trên chúng tôi đã gợi cho chúng ta nhiều suy tư về quan niệm sống trong xã hội.”
b. Thân bài
– Giải thích
+ Thế nào là thờ ơ, vô cảm?
+ Những hiện tượng vô cảm, thờ ơ trong gia đình hiện nay được biểu hiện như thế nào? ( tóm tắt lại văn bản một cách ngắn gọn, rút ra vấn đề).
– Bàn luận
+ Thực trạng: Thờ ơ, vô tâm; quát mắng cha mẹ; đánh đập, thậm chí làm người thân tổn thương vì những hành vi bạo lực,…
+ Hậu quả: Con người trở nên lãnh cảm với mọi thứ, tình cảm thiếu thốn dễ nảy sinh tội ác, khó hình thành nhân cách tốt đẹp; gia đình thiếu hơi ấm, nguội lạnh, thiếu hạnh phúc, dễ gây bất hòa; sự vô cảm, cái ác sẽ thống trị và nhân lên trong xã hội,…
+ Nguyên nhân:
* Bản thân ( thiếu ý thức chia sẻ gian khó với mọi người xung quanh, chỉ biết vụ lợi…).
* Gia đình ( cha mẹ quá nuông chìu con cái, thiếu giáo dục ý thức cộng đồng cho con cái…).
* Nhà trường ( chỉ chăm lo dạy chữ mà coi nhẹ việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng tình cảm cho học sinh…).
* Xã hội ( sự phát triển không ngừng của khoa học, con người trở nên xơ cứng, chỉ nghĩ đến cá nhân, thiếu ý thức cộng đồng…).
– Phê phán
+ N hững biểu hiện lạnh lùng vô cảm.
+ Đề cao thái độ đồng cảm, tình người.
+ Nêu dẫn chứng.
– Bài học nhận thức và hành động
+ Về nhận thức: đây là một vấn đề xấu nhiều tác hại mà mỗi chúng ta cần đấu tranh và loại bỏ ra khỏi bản thân mình và xã hội.
+ Về hành động, cần học tập và rèn luyện nhân cách, sống cao đẹp, chan hòa, chia sẻ, có ý thức cộng đồng.
Quan tâm, chia sẻ với mọi người chung quanh để đầy ý nghĩa.
4. Cách thiết lập dàn ý nghị luận về hiện tượng đời sống 4.1 Khái niệm
– Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn bạc về một hiện tượng đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người ( như ô nhiễm môi trường, nếp sống văn minh đô thị, tai nạn giao thông, bạo hành gia đình, lối sống thờ ơ vô cảm, đồng cảm và chia sẻ …).
– Đó có thể là một hiện tượng tốt hoặc xấu, đáng khen hoặc đáng chê.
– Phương pháp: Để làm tốt kiểu bài này, học sinh cần phải hiểu hiện tượng đời sống được đưa ra nghị luận có thể có ý nghĩa tích cực cũng có thể là tiêu cực, có hiện tượng vừa tích cực vừa tiêu cực… Do vậy, cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đề để gia giảm liều lượng cho hợp lý, tránh làm bài chung chung, không phân biệt được mặt tích cực hay tiêu cực.
4.2 Thiết lập dàn ý
a. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống phải nghị luận.
– Luận điểm 1: giải thích sơ lược hiện tượng đời sống; làm rõ những hình ảnh, từ ngữ, khái niệm trong đề bài.
– Luận điểm 2: nêu rõ thực trạng các biểu hiện và ảnh hưởng của hiện tượng đời sống.
+ Thực tế vấn đề đang diễn ra như thế nào, có ảnh hưởng ra sao đối với đời sống, thái độ của xã hội đối với vấn đề.
+ Chú ý liên hệ với thực tế địa phương để đưa ra những dẫn chứng sắc bén, thuyết phục từ đó làm nổi bật tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề.
– Luận điểm 3: lý giải nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống, đưa ra các nguyên nhân nảy sinh vấn đề, các nguyên nhân từ chủ quan, khách quan, do tự nhiên, do con người. Nguyên nhân nảy sinh vấn đề để đề xuất phương hướng giải quyết trước mắt, lâu dài.
– Luận điểm 4 đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng đời sống. Chú ý chỉ rõ những việc cần làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi sự phối hợp với những lực lượng nào).
– Khái quát lại vấn đề đang nghị luận.
– Thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đang nghị luận.
5. Cụ thể hóa cấu trúc hiện tượng đời sống có tác động đến con người a. Mở bài:
Ví dụ 1: ” Việt Nam vốn là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và có nhiều truyền thống nhân văn cao đẹp về lòng yêu thương con người, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, sự đồng cảm sẻ chia… Một trong những biểu hiện cao đẹp của truyền thống ấy đang được tuổi trẻ ngày nay phát huy. Đó chính là (…). Đây là một hiện tượng tốt có nhiều ý nghĩa nhân văn cao đẹp.”
– Ví dụ 2: ” Môi trường học đường của chúng ta hiện nay đang đứng trước thử thách bởi các vấn nạn: bạo lực học đường, gian lận trong thi cử, nói tục chửi thề, bệnh thành tích trong giáo dục… Một trong những vấn đề thách thức hàng đầu hiện nay đó chính là (…). Đây là một hiện tượng tiêu cực có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ”.
– Ví dụ 3: Xã hội của chúng ta hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức như: tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, nạn tham nhũng, bệnh vô cảm… Một trong những vấn đề thách thức hàng đầu hiện nay đó chính là (…). Đây là một hiện tượng xấu có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ.
b. Thân bài
Ví dụ: Đề bàn về tai nạn giao thông.
Trước hết ta cần hiểu ” Tai nạn giao thông ” là gì? Tai nạn giao thông là tai nạn do các phương tiện tham gia giao thông gây nên. Bao gồm: tai nạn giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không. Trong đó nhiều nhất là tai nạn giao thông đường bộ.
Bàn luận:
– Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông: ( trình bày nguyên nhân):
+ Chủ quan: ý thức người tham gia giao thông. Đây là ngyên nhân cơ bản, quan trọng nhất dẫn đến tai nạn giao thông: không chấp hành luật giao thông, thiếu quan sát, phóng nhanh, giành đường, vượt ẩu, sử dụng rượu bia và các chất kích thích khi tham gia giao thông…
+ Khách quan: cơ sở hạ tầng giao thông còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu xã hội, mật độ dân số ngày càng đông…
– Phân tích những nguyên nhân, tìm ra biện pháp khắc phục: ( trình bày biện pháp).
+ Xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật
+ An toàn giao thông – hạnh phúc của mọi người, mọi nhà.
+ Hãy chấp hành nghiêm luật giao thông đường bộ.
+ Hãy đội mũ bảo hiểm để bảo vệ cuộc sống của bạn.
+ Lái xe bất cẩn – Ân hận cả đời.
+ Hãy nói không với rượu, bia khi tham gia giao thông.
+ Có văn hóa giao thông là sống vì cộng đồng.
– Bài học bản thân: ” An toàn là bạn, tai nạn là thù ” để không trở thành nạn nhân của tai nạn giao thông. Như rèn luyện nhân cách, bản lĩnh; tham gia vào các sinh hoạt văn hóa lành mạnh…
c. Kết bài
– Tai nạn giao thông là một vấn nạn ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội cần sữ chung sức của cả cộng đồng.
– Hãy thể hiện mình là người có văn hóa khi tham gia giao thông.
Nguyễn Thủy Tiên
( Giáo viên Quốc tế Á Châu)
Môn Ngữ Văn: Viết Bài Nghị Luận Xã Hội
Trong nội dung hạn chế đề thi tuyển sinh cao đẳng và đại học 4 năm gần đây (từ 2009), đây là phần được coi là mới nhất. Đúng ra, dạng đề thi thuộc loại này trước đây đã từng rất quen thuộc với học sinh. Có một thời kì, trong đề thi làm văn của học sinh bậc phổ thông trung học, người ta không còn ra loại đề này. Chính thức từ kì thi năm 2009, dạng đề thi này mới quay trở lại, nên học sinh, nhất là khối thí sinh tự do cảm thấy bỡ ngỡ. Tuy nhiên, với những học sinh đã học chương trình mới từ đầu, nếu được thầy cô giảng dạy chu đáo và bản thân thường xuyên rèn luyện, đây cũng chỉ là bài làm văn thông thường, không khó.
Khái lược về văn nghị luận“Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận dụng các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” (Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, tập 2).
Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Đề tài của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn cầu hoá…Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học, nhà văn làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị.
Các dạng câu hỏiDo đây là loại câu hỏi bắt buộc trong chương trình thi, nhưng lại không có những bài học sẵn như nghị luận văn học, để làm tốt câu hỏi này, thí sinh cần phải nắm vững các vấn đề sau:
+ Phải biết phát huy mọi loại kiến thức, trong nhà trường cũng như trong cuộc sống để so sánh, phát triển, vận dụng vào bài viết sao cho phong phú, sâu sắc, đầy đủ, cô đúc nhất.
+ Phải chủ động, mạnh dạn trong khi viết bài, vì không giống với nghị luận văn học, nói chung người viết có thể dựa vào bài học có sẵn, hoặc được thầy cô giáo hướng dẫn, bài nghị luận xã hội hoàn toàn buộc người viết phải chủ động đề xuất chính kiến của mình, có thể đúng hay chưa đúng, được số đông chấp nhận hay không chấp nhận, miễn là nó thuyết phục được người đọc bằng những lí lẽ xác đáng.
Trước tiên, chúng ta phải làm quen với các dạng câu hỏi. Đây là một số ví dụ tiêu biểu:
“Như một thứ a xít vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể ăn mòn cả một xã hội”. Từ ý kiến trên, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay (đề thi ĐH khối C, năm 2010)
“Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. Từ ý kiến trên, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về sự nguy hại của đạo đức giả đối với cuộc sống con người (đề thi ĐH, khối D, năm 2010)
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa (đề thi ĐH, khối D, năm 2009)
Trong một lần trả lời con gái thế nào là hạnh phúc, Mác nói: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Anh/chị hiểu câu nói trên như thế nào?
“Mọi lí thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” (Gớt). Anh/chị hiểu câu nói trên như thế nào”?
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội hiện nay.
Viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp bảo đảm an toàn giao thông hiện nay.
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh thành tích – một căn bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay. Có thể so sánh liên hệ với trường và lớp anh/ chị đang theo học.
“Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới” (M. Gorki). Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề trên.
Nhà văn Nga Lev Tolstoi nói “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Hãy nêu ý kiến của anh/chị về vấn đề trên.
“Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu). Dựa vào câu thơ trên, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ riêng của anh/ chị..
Những câu hỏi nghị luận xã hội như đã nêu ở trên, khá rộng mở. Chúng ta không thể có cách học nào tốt hơn là rèn luyện thật nhiều kĩ năng đọc hiểu văn bản, phải nắm vững và làm chủ được nhiều loại kiến thức, và phải biết phát huy tính chủ động trong suy nghĩ của mình.
Trong hạn chế chương trình với dạng đề này, học sinh lại phải nắm được hai dạng chính đã được hạn chế:
+ Một là loại bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí (chẳng hạn câu ca từ của Trịnh Công Sơn, câu trả lời của Mác với con gái, câu nói của Gớt về vai trò quan trọng của thực tiễn so với lí thuyết…)
+ Hai là loại bài nghị luận về một hiện tượng đời sống (về căn bệnh vô cảm, bệnh thành tích, về thói quen sinh hoạt hàng ngày, về thái độ thi cử thiếu trung thực…).
Cấu trúc của bài nghị luậnMột bài nghị luận xã hội dù dung lượng không dài cũng vẫn phải đảm bảo cấu trúc của một bài làm văn, nghĩa là vẫn phải có mở đầu, thân bài và kết luận. Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm mà đề ra yêu cầu. Phần thân bài, phải triển khai tiếp các luận điểm đã được nêu ra ở phần một, và cuối cùng, phần kết luận, người viết phải đưa ra tổng kết của cá nhân mình về vấn đề đã nêu, đúng hay sai? Bài học nào được rút ra cho cá nhân người viết? Tóm lại, với một bài nghị luận xã hội, bố cục chung của bài làm nên lần lượt triển khai theo các bước sau đây:
Ý 1: Nêu và giải thích ý kiến câu hỏi đề thi.
Ý 2: Bàn luận mở rộng về ý kiến câu hỏi đề thi.
Ý 3: Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân và cho mọi người.
Một số ví dụVí dụ 1. Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn tạo nên thành tựu (đề thi ĐH, khối C, 2012)
Đáp án sơ lược 1. Giải thích ý kiến
– Kẻ cơ hội là người lợi dụng thời cơ để mưu cầu lợi ích trước mắt, bất kể việc làm đúng hay sai; người chân chính là người luôn biết sống đúng với thực chất và phù hợp với những giá trị xã hội; thành tích là những kết quả được đánh giá tốt; thành tựu là những thành quả có ý nghĩa lớn, thường chỉ đạt được sau một thời kì phấn đấu lâu dài.
– Về nội dung, đây là ý kiến chỉ ra sự đối lập về lối sống và cách hành xử trong công việc giữa loại người cơ hội và chân chính.
2. Bàn luận về ý kiến
* Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích
– Do thói vụ lợi, bất chấp đúng sai nên trong công việc, kẻ cơ hội không cầu kết quả tốt, mà chỉ cầu được đánh giá tốt. Kẻ nào càng vụ lợi thì lại càng nôn nóng có được thành tích. Bởi thế, loại người này thường chỉ tạo ra những thành tích giả.
– Về thực chất, cách hành xử ấy là lối sống giả dối khiến cho thật giả bất phân, làm băng hoại các giá trị về đạo đức; lối sống cơ hội này đã khiến bệnh thành tích lan tràn như hiện nay.
* Người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu
– Coi trọng chất lượng thật, kết quả thật là đức tính của người chân chính. Bởi thế loại người này thường kiên nhẫn trong mọi công việc để tạo nên những kết quả thực sự, những thành quả có ý nghĩa lớn. Đối với họ chỉ có những thành quả thực sự mới tạo nên giá trị thực của con người, dù có khi phải trả giá đắt.
– Về thực chất, cách hành xử ấy thuộc về lối sống chân thực, biểu hiện của những phẩm chất cao quý; giúp tạo nên những thành quả thực, những giá trị đích thực cho mình và cộng đồng, góp phần thúc đẩy xã hội tiến lên.
3. Bài học về nhận thức và hành động
– Cần nhận thức rõ đây là hai kiểu người đối lập nhau về nhân cách: một loại người tiêu cực thấp hèn cần phê phán, một mẫu người tích cực cao cả cần trân trọng.
– Cần noi theo lối sống của những người chân chính, luôn coi trọng những kết quả thật và kiên nhẫn phấn đấu để lập nên những thành tựu; đồng thời lên án lối sống cơ hội, nôn nóng chạy theo thành tích giả.
Ví dụ 2: “Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống” (Norman Kusin). Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày những suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên.
Đáp án chi tiết
– Cuộc sống với mỗi con người là điều quan trọng nhất. Ai trên đời này lại không yêu cuộc sống. Đó là điều không thể phủ nhận. Vì thế, cũng không thể phủ nhận, cái chết là nỗi bất hạnh lớn nhất với mỗi con người. Từ xưa tới nay, con người luôn tìm hiểu và tìm mọi cách chế ngự cái chết để giành sự sống.
– Nói “cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống” như Norman Kusin cũng không hề sai. Cuộc sống và cái chết là hai thái cực đối lập nhau dữ dội. Bởi thế càng yêu cuộc sống, con người lại càng sợ hãi trước cái chết. Nhưng, có một nỗi sợ lớn lao hơn cái chết, đó là khi còn sống, người ta để cho “tâm hồn mình tàn lụi”.
2. Giải thích câu nói của Kusin
– “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất”: Để làm sâu sắc chân lí này, trước tiên cần phải khẳng định giá trị cuộc sống của con người, khẳng định cái chết với mỗi con người quả nhiên là sự mất mát lớn nhất. Chết là chấm dứt sự sống, chấm dứt sự tồn tại hữu hình của con người. Khi chết, người ta sẽ phải rời xa vĩnh viễn tất cả những gì yêu thương, gắn bó, không còn được tận hưởng niềm hạnh phúc, những thú vui, lao động, cống hiến và sáng tạo. “Mỗi con người chỉ được sống một lần…”, một nhà văn Nga đã từng nói như thế. Và như thế, cũng có nghĩa, một con người bình thường, không thể không coi cái chết là sự mất mát lớn nhất. Vậy nhưng, theo Norma Kusin, có một nỗi mất mát còn lớn hơn, đó là khi người ta “để cho tâm hồn tàn lụi khi còn sống”. Tại sao lại thế?
– “Điều đáng sợ nhất là để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống”: Cuộc sống của con người tồn tại ở hai dạng thể chất và tinh thần. Một cuộc sống có ý nghĩa phải là sự hài hoà giữa hai trạng thái trên. Một cuộc sống tinh thần đầy đủ đúng nghĩa là phải được thoả mãn đầy đủ về mặt tâm hồn. Nghĩa là phải có khát vọng lao động và sáng tạo; phải biết rung động trước cuộc đời, biết yêu và biết ghét, yêu cái đẹp và ghét những cái xấu xa; không để tâm hồn chai sạn, vô cảm trước mọi nỗi buồn vui của cuộc đời.
3. Bàn luận mở rộng về câu nói của Kusin
– Tại sao cái chết không phải là mất mát lớn nhất? – Cuộc sống với con người thật là quý giá. Nhưng không ai có thể vĩnh viễn trong cuộc đời này. Đó là quy luật. Tuy nhiên, cái chết với mỗi con người không có nghĩa là kết thúc, là dấu chấm hết. Bởi lẽ, có những cái chết vẫn để lại “muôn vàn tình thân yêu”; chết nhưng lại “gieo mầm sự sống”, để lại cho muôn đời sau sự ngưỡng mộ, kính yêu. Chị Võ Thị Sáu ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng tên tuổi, tâm hồn, vẻ đẹp của chị vẫn mãi sống trong lòng nhân dân. Một cái chết như thế đâu phải là mất mát lớn nhất?
– Sự tàn lụi trong tâm hồn khi còn sống mới là đáng sợ: Sự sống không đơn giản chỉ là ăn uống, hít thở, hưởng thụ, tận hưởng về mặt vật chất. Có những người sống trong cuộc đời chỉ coi trọng điều này. Rõ ràng, họ không chết về mặt thể chất. Thế nhưng, tâm hồn của họ trống rỗng; họ vô cảm, dửng dưng trước mọi nỗi buồn vui của cuộc đời; chỉ biết “yêu” bản thân mình, không ước mơ và khát vọng…Một cuộc sống như thế chính là “cái chết” về mặt tâm hồn. Cái chết này thậm chí còn đáng sợ hơn, khủng khiếp hơn “cái chết thể chất”. Đó là lí do khiến Trương Ba xin được “chết” khi Đế Thích vẫn cho ông sống, nhưng là sống trong vỏ bọc thể xác của một người khác, không phải là mình.
4. Liên hệ với bản thân trong cuộc sống hiện nay
Trong cuộc sống hiện nay, khi mà nhu cầu vật chất không còn là điều quá khó khăn, mỗi con người đều có thể dễ dàng thoả mãn nhu cầu vật chất của mình. Xã hội càng hiện đại, tiện nghi, con người lại càng dễ có nguy cơ sa vào lối sống hưởng thụ, vô cảm, lạnh lùng, mất phương hướng. Sống tích cực, lạc quan, chan hoà, yêu thương và chia sẻ chính là cách tốt nhất để con người không rơi vào tình trạng “tâm hồn tàn lụi”
Ví dụ 3: “Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ chúng tôi Côn viết: “xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi cử”. Từ ý kiến trên, hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống. (đề thi ĐH, khối C, năm 2009)
Bài làm hoàn chỉnh của một học sinh trong kì thi ĐH năm 2009 (bài đạt điểm cao)
1. Mở bài: Một trong những nét đẹp trong phẩm chất của con người từ xưa đến nay vẫn luôn được đề cao, đó là đức tính trung thực. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, trong khi thi cũng như trong cuộc sống, sự trung thực, không gian dối luôn là một trong những yếu tố tiên quyết để làm nên phẩm chất của một con người, cũng như để đánh giá chính xác con người đó. Trong văn học dân gian từ ngàn xưa, không mấy ai còn xa lạ với những câu ngạn ngữ đề cao sự trung thực như: “Cây ngay không sợ chết đứng”, “khôn ngoan chẳng lọ thật thà” …Vậy nên sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi một người bố, Tổng thống A. Lin-côn, trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, đã viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi…”
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu sự trung thực nghĩa là gì? Hẳn trong chúng ta không ai lại không biết rằng, trung thực là không gian dối, là ngay thẳng, là lời nói đi đôi với việc làm…Xét từ góc độ ngữ nghĩa, trung thực là một từ gốc Hán được cấu thành bởi hai thành tố: trung và thực (trung là ngay thẳng, thực là thật thà). Cũng có thể giải thích “trung” là một dạ một lòng, dù hoàn cảnh nào cũng không thay đổi (kiên trung) và “thực” là lẽ phải, là cái tồn tại thật, chân lí. Nói tóm lại cả hai yếu tố này đều khẳng định đề cao cái đẹp, cái thiên lương của con người trong cuộc sống. Một con người trung thực là một người luôn nói thật với lòng mình, không dối trá, không thay hình đổi dạng dù cuộc sống có khó khăn đến bao nhiêu…
Sự trung thực của con người cũng giống như những thực thể tồn tại của thiên nhiên, như gió mưa và mặt trời, dù êm ả hay dữ dằn, nó vẫn muôn đời diễn ra như thế. Tương tự như vậy, sự gian lận trong thi cử và rộng hơn là trong cuộc sống con người vẫn thường diễn ra ở đó hoặc đây khiến con người không thể không lưu tâm. Cùng một xuất phát điểm như nhau, nhưng có những người kiên trì đi từng bước chậm rãi, khó nhọc vượt qua những chông gai, thử thách để đạt tới thành công, vậy nhưng trong cuộc chạy đua với một kẻ gian dối, họ vẫn là người thua cuộc. Tại sao sự gian lận là điều xấu xa ai ai cũng biết mà nó vẫn có cơ tồn tại trong mọi xã hội và ngay trong cả xã hội ta hiện nay? Có lẽ bởi, trong xã hội của bất cứ thời kì nào, đất nước nào cũng vẫn tồn tại những kẻ lười nhác, ngu dốt…nhưng lại luôn đòi hỏi một cuộc sống hơn người. Câu chuyện Lí Thông cướp công Thạch Sanh trong kho tàng truyện dân gian nước ta phải chăng vẫn luôn là một bài học nóng hổi. Nó là một tấm gương để tất cả mọi người phải biết tự răn mình và phải luôn nêu cao cảnh giác. Bởi lẽ, dù có gian dối, xảo trá bao nhiêu, Lí Thông cuối cùng rồi cũng bị trừng phạt. Người có công Thạch Sanh, cuối cùng vẫn cứ được tri ân. Đó là lí do khiến tôi luôn có niềm tin rằng, dù trong cuộc sống vẫn còn sự gian dối, nhưng “thành công” của việc làm gian dối như thế, sẽ không có cơ sở tồn tại lâu dài. Bởi như danh ngôn có câu “Những gì không phải của mình thì rồi nó cũng sẽ nhanh chóng ra đi”, ánh hào quang có được nhờ vào những việc làm gian dối, sớm muộn rồi cũng sẽ tắt. Bởi ánh hào quang ấy không được đốt lên bằng chính nội lực trái tim của mình…
Trở lại lời “cầu xin” của Tổng thống Mĩ A. Lin-côn với thầy hiệu trưởng cho đứa con trai của mình, bản thân tôi là một học sinh đang đi thi, tôi thấy vô cùng thấm thía. Là người đứng đầu một đất nước, hẳn Lin-côn không khó khăn gì để trải “tấm thảm hoa” cho đứa con trai của mình, không phải chỉ những năm còn học trong trường, mà cả khi đã trưởng thành trong cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi ông không trực tiếp yêu cầu điều đó, ở một nơi, sự trung thực không được đặt ở tiêu chí hàng đầu, những kẻ thiếu trung thực dưới quyền ông cũng có thể sẵn sàng làm điều đó. Chẳng phải vì họ quan tâm đến ông, mà đó là quan tâm đến chính họ. Một người biết nhìn xa trông rộng, biết vì cái đại thể mà quên đi lợi ích của riêng mình, tôi nghĩ rằng không ai lại không đồng cảm với vị Tổng thống Lin-côn. Thêm nữa, biết đâu, vị Tổng thống đáng kính ấy còn suy nghĩ sâu xa hơn, sự vấp ngã trong một kì thi nhỏ, sẽ ngáng chân con trai ông trong trong suốt cả cuộc đời. Trong cuộc đời con người còn có biết bao kì thi, mà không chỉ có những kì thi công khai, có ban giám khảo, phải cạnh tranh với nhiều người, mà còn có cả những kì thi của chỉ riêng một người, kì thi với chính bản thân mình, kì thi của lòng trung thực. Theo tôi hiểu, sự trung thực luôn nên là bài học đầu tiên cho tất cả mọi người ngay cả khi chưa bước chân đến trường. Bởi lẽ, suy cho cùng, so với cả một cuộc đời dài, thì con người ta trải qua thi cử với đúng nghĩa của nó chỉ trong một thời gian ngắn. Vì thế, bài học về sự trung thực vẫn cứ phải luôn được “nằm lòng” trong suốt cả cuộc đời. Trung thực trong cuộc sống là trung thực trong công việc, trong quan hệ với tất cả mọi người xung quanh và với cả chính bản thân mình. Tôi cũng nghĩ, đôi khi ta cũng nên hiểu, sự trung thực trong cuộc sống, giữ được nó thật khó lắm thay. Vì thế, không nên vận dụng nó một cách máy móc. Nhà văn Anh O. Henri trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng kể câu chuỵện một hoạ sĩ vì muốn cứu mạng sống một đứa bé tội nghiệp lâm bệnh nặng đã buộc phải vẽ chiếc lá xanh trên tường, để đánh lừa chiếc lá vẫn còn tươi. Người nghệ sĩ kia đã nói dối đứa bé, nhưng lại “trung thực” với lương tâm của mình, thì rõ ràng hành động cao đẹp của ông là đáng được ca ngợi. Cũng như thế, một người bác sĩ hay người thân của một bệnh nhân đang mang trong mình căn bệnh nan y, trung thực với bệnh nhân hay nói dối anh ta, nên lựa chọn giải pháp nào. Tôi nghĩ rằng, chắc ai cũng sẽ tự tìm cho mình câu trả lời đó. Và đó chính là điều khó khăn trong việc vận dụng sự trung thực của mọi xã hội, chứ không phải riêng ở nước Mĩ, hay ở nước ta.
3. Kết luận: Nói tóm lại, trung thực trong thi cử cũng như trong cuộc sống là một đức tính cần được đề cao và ý thức rõ trong mỗi người chúng ta trong xã hội hiện nay. Một xã hội muốn tốt đẹp thì bản thân mỗi người phải là một cá thể đẹp. Để xoá bỏ hoàn toàn “bệnh thành tích”, những gian dối trong thi cử, trong công việc hàng ngày, trong cuộc sống, rất cần sự đấu tranh của số đông người, của tập thể cũng như ý thức tự giác của mỗi cá nhân. Sự thật sẽ luôn là sự thật cho dù nó vẫn luôn là một liều thuốc đắng với tất cả mọi người, kể cả vị Tổng thống Mĩ A. Lin-côn.
Xem bài 4: Vận dụng khả năng đọc hiểu để viết bài nghị luận văn học
Cách Viết Đoạn Văn Nghị Luận Xã Hội 200 Chữ
Đề minh họa kì thi THPT Quốc gia 2023 của Bộ Giáo dục có câu hỏi Nghị luận xã hội :Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: ” Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em.” Gặp câu hỏi như thế này, không ít học sinh tỏ ra lúng túng trong cách triển khai. Đa số các em chưa định hình được dung lượng 200 chữ là phải viết bao nhiêu? nhiều hơn hoặc ít hơn 200 chữ có bị trừ điểm không ? và trong khoảng thời gian ngắn, dung lượng ngắn, các em phải làm thế nào để được trọn vẹn 2 điểm? Bài viết hướng dẫn các em cách làm bài như sau :
Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), có thể nhiều hơn 1 vài dòng cũng không bị trừ điểm. Thậm chí các em có thể viết lên tới 250 chữ . Giám khảo không ai ngồi đếm đủ 200 chữ nên các em đừng quá lo lắng về số câu số chữ của bài viết. Nếu viết đủ ý, diễn đạt lưu loát, không mắc nhiều lỗi chính tả, sáng tạo , .. .thì lên xuống 1 vài dòng cũng vẫn được điểm cao. Nếu đề bài yêu cần “viết bài văn” thì các em cần trình bài đủ 3 phần của bài NLXH thông thường ( Mở bài- thân bài- kết bài ), phần mở bài viết thành 1 đoạn, thân bài mỗi luận điểm ngắt thành 1 đoạn riêng, kết bài viết 1 đoạn.
Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :
Chuyên đề: Chinh phục đoạn văn nghị luận xã hội 200 từ – ( phần 1 ) :
Chuyên đề : Chinh phục đoạn văn Nghị luận xã hội 200 từ, Phần 2:
BỘ ĐỀ LUYỆN TẬP VÀ HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Link đọc : Nghị luận xã hội Link tải :
https://drive.google.com/open?id=0BwtFEPXEvuFjWWh0dXdFc2l2MzNqTnI1M3lOX1dNSWlNQldZ
Phương Pháp Viết Đoạn Văn Nghị Luận Xã Hội 200 Từ
Dù viết đoạn văn nghị luận xã hội chỉ chiếm hai điểm nhưng để đạt hai điểm trọn vẹn không phải là chuyện dễ dàng. Chúng ta thường cảm thấy viết một bài văn sẽ dễ hơn viết một đoạn văn, chúng ta sẽ lúng túng trong việc chọn luận điểm, luận cứ, dẫn chứng.
Vì vậy bài viết sẽ chia sẻ kinh nghiệm, giúp các em có kĩ năng, phương pháp viết đoạn nghị luận xã hội tốt nhất để giúp các em vượt qua kì thi THPT quốc gia thành công.
Một đoạn văn nghị luận xã hội đạt yêu cầu phải đảm bảo hai khía cạnh:
Lưu ý chung: Để làm tốt nghị luận xã hội, điều đầu tiên chúng ta cần chính là kiến thức xã hội sâu, rộng, có một sự hiểu biết nhất định về những vấn đề đạo đức, lối sống hay những sự kiện, hiện tượng đang “nóng”, đang diễn ra hàng ngày quanh ta… Có những hiểu biết đó chúng ta mới bày tỏ quan điểm, thái độ, nhận định cũng như có đủ lý lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người khác.
…(1) Một viên sỏi nhỏ cũng có thể làm xáo động cả một vùng nước. Nhỏ thôi, nhưng khi ta biết gieo một điều tốt, sự lan tỏa của nó là gần như không thể giới hạn. Nhỏ thôi, nhưng khi ta làm một điều xấu, tiếng của nó lan xa chẳng gì có thể ngăn được. Người xưa nói; Đừng thấy việc ác nhỏ mà làm. Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm. Khi ta biết tránh làm điều ác, biết gieo mầm thiện, cho dù nhỏ thôi, thì ta cũng có cơ hội để thành người tử tế qua mỗi ngày lớn lên. Như những vòng tròn đồng tâm lan rộng, ta startup cuộc đời mình theo cách nhẹ nhàng và lãng mạn, tỏa lan năng lượng tích cực, tạo nên những con sóng dù nhỏ nhưng có thể đánh động cả tự nhiên để tất cả biết rằng ta đang thực sự sống.
(2) Cuộc sống cũng nhắc ta không ngừng hành động. Ta khởi sự một việc dù nhỏ thì cũng có thể tạo những làn sóng tỏa lan, những vòng tròn đồng tâm nối nhau sống động. Đôi khi ta ném xuống mặt bến sông tĩnh lặng là tâm hồn ta một viên sỏi nhỏ để nhắc mình sống, nhắc những điều tốt cần được thể hiện, nhắc dám đối đầu với những kẻ ác và những hành động không tử tế. Khi còn trẻ là khi ta cần lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực cho người xung quanh, cho bạn bè, cho ánh sáng đẩy lùi bóng tối… (Trích Bay xuyên những tầng mây – Hà Nhân, NXB Văn học, 2023, tr.191, 192)
Với đoạn đọc – hiểu như trên thì câu NLXH là: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực cho người xung quanh.
Chúng ta tiến hành bước Xác định yêu cầu đề như sau:
Đọc kĩ đề: đoạn văn trên truyền tải thông điệp làm điều thiện hay điều ác dù nhỏ thôi nhưng nó cũng có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng. Qua đó tác giả cũng khẳng định mỗi việc chúng ta làm, dù nhỏ hay lớn đều có tác động rất lớn đến xung quanh. Bởi vậy làm bất cứ điều gì cũng cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt nhấn mạnh chúng ta cần lan truyền những điều tốt đẹp đến mọi người xung quanh. Vì thế chúng ta cần gạch chân những từ ngữ quan trọng, tìm mối liên hệ với nội dung đoạn đọc hiểu để hiểu rõ nội dung cần nghị luận: với đề trên chúng ta cần chú ý các từ ngữ quan trọng là: trình bày suy nghĩ, ý nghĩa bản thân, lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực.
Làm tốt bước này sẽ giúp các em hiểu rõ vấn đề cần nghị luận, tránh lạc đề, sai đề.
Tức là dẫn dắt người đọc đến vấn đề mà em cần nghị luận. Nếu dẫn dắt tốt sẽ truyền cảm hứng giúp các em đi vào bàn luận tốt hơn, hơn nữa ngay phần dẫn dắt sẽ phần nào cho biết các em có đi đúng hướng hay lạc đề hay không. Nhưng vì chỉ viết một đoạn văn 200 từ nên phần dẫn dắt không cần quá dài, chỉ nên một đến hai câu là đủ, và nhất định phải giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
Ví dụ: Với đề trên ta có thể dẫn dắt như sau: Cuộc sống luôn tồn tại những khó khăn, thử thách; vì thế chúng ta cần luôn có thái độ lạc quan, yêu đời để có thể vững bước. Nhưng chỉ mình chúng ta chưa đủ, đôi lúc chúng ta cũng cần phải lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực cho người xung quanh.Vì việc đó thật sự có ý nghĩa.
Giải thích : giải thích khái niệm, hình ảnh, câu nói từ đó suy ra nội dung, ý nghĩa vấn đề mà đề yêu cầu. Với đề trên chúng ta cần giải thích : Năng lượng sống tích cực: có thể hiểu là những suy nghĩ, hành động, thái độ sống tích cực, lạc quan của mỗi cá nhân đối với các vấn đề trong cuộc sống. Tạo ra năng lượng sống tích cực, để lan tỏa đến những người xung quanh là việc làm hết sức có ý nghĩa và cần thiết.
Phân tích – chứng minh : tìm cách đặt câu hỏi vì sao? Lí giải biểu hiện? Nguyên nhân?… để từ đó giảng giải, làm rõ bản chất vấn đề.
Với đề trên, chúng ta cần tập trung phân tích – Ý nghĩa khi lan tỏa năng lượng sống tích cực. Muốn làm rõ điều đó chúng ta cần chỉ rõ việc lan tỏa lan tỏa năng lượng sống tích cực đối với bản thân sẽ giúp ta luôn cảm thấy lạc quan, yêu đời, dễ dàng vượt qua được mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Đối với người xung quanh: Khi lan tỏa năng lượng sống tích cực đến những người xung quanh sẽ giúp họ có niềm tin vào cuộc sống và vượt qua thử thách; Không chỉ vậy, năng lượng tích cực khi được lan tỏa sẽ khiến cho cộng đồng sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn; Năng lượng tích cực sẽ tạo nên một xã hội vững mạnh, văn minh và nhân ái.
Dẫn chứng : với yêu cầu của một đoạn văn 200 chữ các em không cần phải dẫn quá nhiều dẫn chứng hoặc kể lể dài dòng… Dẫn chứng không nên quá cũ cũng không nên quá mơ hồ, càng gần thời đại càng tốt. Với đề trên tốt nhất là các em nên lấy dẫn chứng từ những con người, việc làm xung quanh chúng ta, nhỏ bé, bình dị nhưng đủ sức lan tỏa (những bác sĩ tuyến đầu chống dịch Covid, ước mơ của Thúy…) thì bài sẽ sâu sắc và đủ sức thuyết phục.
Bàn bạc mở rộng vấn đề : ở phần này chúng ta cần đánh giá vấn đề cần nghị luận tức là chỉ rõ vấn đề đúng hay sai, đồng tình hay không đồng tình, đưa ra giải pháp… từ đó chúng ta có thể đưa ra phản đề (phê phán, bác bỏ những vấn đề ngược lại), để cuối cùng chúng ta rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.
Với đề trên, chúng ta cần đồng tình việc lan tỏa những năng lượng tích cực là vô cùng cần thiết. Nhưng không có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng ép mình phải vui vẻ, giả tạo hay che đậy cảm xúc thật của bản thân… Và dù thế nào hãy luôn nhớ giữ thái độ sống lạc quan, yêu đời; Luôn ghi nhận và khen ngợi trước những thành tích người khác đạt được; Luôn mỉm cười, sống thân thiện, chan hòa. …
Thạc sĩ Nguyễn Huyền Nga
Cách Làm Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Lớp 12
Cách làm bài văn nghị luận xã hội lớp 12 dạng đề tổng hợp hay nhất
Đề bài nghị luận về vấn đề xã hội được rút ra từ một tác phẩm văn học. Mục đích của dạng đề này là kiểm tra kiến thức văn học, kiến thức về đời sống của học sinh. Từ một vấn đề xuất phát trong tác phẩm, học sinh cần bàn bạc rộng về vấn đề đó.
Trong đề thi, teen 2K1 có thể gặp kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm đã được học hoặc chưa được học.
Thông thường các tác phẩm văn học là bài thơ ngắn, câu truyện ngắn có nhiều ý nghĩa.
Nội dung đề tài hướng đến là các vấn đề xã hội sâu sắc. Các vấn đề hay gặp như: Lòng yêu nước, ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống, trách nhiệm sống của giới trẻ trong xã hội hiện tại…
Các bước làm bài
Cũng tương tự như cấu trúc bài văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lí hay hiện tương đời sống, cấu trúc của bài văn nghị luận về vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học cũng gồm 3 phần: Mở- thân- kết.
1. Mở bài:
– Dẫn dắt- giới thiệu về vấn đề từ tác phẩm văn học đã đặt ra trong đề bài.
– Nêu vấn đề xã hội
Từ tác phẩm văn học đặt ra vấn đề xã hội cần bàn bạc.
2. Thân bài: – Giải thích vấn đề cần bàn bạc
Trước hết teen 2K1 cần tóm tắc nội dung tác phẩm văn học.
Lưu ý: Phần tóm tắt tác phẩm, nêu ý nghĩa sẽ chiếm khoảng 30% nội dung bài.
– Bàn luận về vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học.
Đây là phần trọng tâm của bài. Ở phần này học sinh cần chú ý vấn đề chúng ta cần bàn bạc rơi vào bàn về một tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống.
Tùy vào từng trường hợp mà chúng ta triển khai cho hợp lí.
– Bài học về nhận thức, hành động
Học sinh đưa ra bài học nhận thức đúng với vấn đề xã hội đang bàn luận.
Sau đó rút ra bài học về hành động cho bản thân. Ở phần này các em cần nêu cụ thể hành động. Đừng chỉ đưa chung chung. Như vậy các em sẽ không đạt được điểm tối đa.
3. Kết bài:
– Kết thúc vấn đề
Từ vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học khẳng định vấn đề trong đề thi.
Luyện cách làm bài văn nghị luận xã hội lớp 12 dạng đề tổng hợp với một số đề
Một số đề văn nghị luận dạng đề tổng hợp
Đề 1:
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam có câu :”Không thầy đố mày làm nên”.
Qua câu tục ngữ trên anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của bản thân về vai trò của người thầy trong xã hội hiện tại.
Đề 2:
Bàn luận về cách nhìn nhận cuộc sống, con người trong xã hội qua “tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 3:
Trong tác phẩm “hồn Trương Ba, da hàng thịt”, nhân vật Trương Ba đã bày tỏ quan niệm sống qua câu “Không thể bên ngoài một đằng, bên trọng một nẻo được”. Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ về quan niệm trên.
Không chỉ có cách làm bài văn nghị luận xã hội lớp 12 dạng đề tổng hợp, sách luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn này còn có hướng dẫn chi tiết làm tất cả các dạng bài trong đề thi.
Năm 2023, các thí sinh thuộc đối tượng tuyển sinh có nguyện vọng theo học tại Trường Đại học FPT đủ điều kiện xét tuyển nếu đạt một trong các tiêu chí sau:
1. Thuộc diện được tuyển thẳng theo Quy chế tuyển sinh Đại học, Cao đẳng hệ đại học chính quy của Bộ GD&ĐT
2. Điểm các môn thi trong kỳ thi THPT 2023 thuộc Top50 THPT toàn quốc (theo số liệu Đại học FPT tổng hợp và công bố sau kỳ thi THPT 2023) và điểm theo khối xét tuyển đạt từ trung bình trở lên (15/30 điểm)
3. Điểm học bạ thuộc Top50 THPT toàn quốc
4. Đã tốt nghiệp Đại học
Hướng Dẫn Cách Viết Đoạn Văn Nghị Luận Xã Hội Thông Dụng
Một số lưu ý trong cách viết đoạn văn nghị luận xã hội
Với cách viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ thì học sinh cần lưu ý chọn lọc những nội dung trọng tâm để viết nhằm đảm bảo số lượng chữ cũng như yêu cầu của đề. Tuy nhiên, học sinh cũng không cần rất cần phải viết đúng 200 chữ vì đó chỉ là số lượng ước chừng (khoảng tầm 20 dòng) và nếu viết hơn 1 vài dòng cũng sẽ không còn trừ điểm.
Khi trình bày một đoạn văn, học sinh cần viết hoa từ trên đầu tiên và viết lùi vào đầu dòng. Những câu tiếp theo trong đoạn cần viết tiếp nối và không được ngắt xuống dòng khi viết. Với cách viết đoạn văn nghị luận xã hội thì khi trình bày cần đảm bảo tính chính xác về chính tả, dấu câu, cách ngắt nghỉ cho phù hợp.
Khi đảm bảo được bố cục tổng quan đoạn văn, học sinh sẽ đạt được 0,25 điểm. Vì thế học sinh nên tìm hiểu cách viết đoạn văn nghị luận xã hội có đủ ba phần: mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Đây là việc làm không thực sự khó khăn, vì vậy nếu học sinh để mất điểm phần bố cục tổng quan đoạn văn chỉ vì thiếu một trong ba phần trên thì rất không hề muốn.
Trong câu viết một đoạn văn nghị luận, vì giới hạn là một đoạn văn nên đề thi không bao giờ yêu cầu thí sinh phải trình bày hết tất cả những nội dung gồm có: giải thích khái niệm, phân tích và chứng minh, dẫn chứng, phản đề, bài học kinh nghiệm hành động. Thực tế cho thấy, chỉ trong 200 chữ mà phải nêu hết các phần trên như một bài văn nghị luận thu nhỏ thì rõ ràng, người viết rất khó có thể có thể trình bày cụ thể và có chiều sâu hiểu biết, suy nghĩ, cách nhìn nhận và đánh giá của member về các phần đó.
Dẫn chứng trong đoạn văn nghị luận cần nêu ra cụ thể nhất để sở hữu thể thuyết phục người đọc. Đó là việc cụ thể về tên người, thời gian, địa điểm… Nếu tốt hơn thế thì dẫn chứng nên chọn lọc từ những sự việc, con người… có tính phổ biến và có tính thời sự. Tránh nêu dẫn chứng mơ hồ, chung chung vì sẽ không còn mang lại hiệu quả cao.
Chẳng hạn, nếu đề yêu cầu người viết trình bày về tình mẫu tử thì dẫn chứng nêu ra không thể viết kiểu chung chung là: “Trong cuộc sống, có rất nhiều người mẹ đã mất lòng hi sinh vì con cháu”. Viết như vậy là đúng nhưng không mang lại tính thuyết phục. Thế nên, trong cách viết đoạn văn nghị luận xã hội thì người viết cần dẫn dắt một câu truyện cụ thể, ví dụ như câu truyện của Thiếu úy Đậu Thị Huyền Trâm vào năm 2023 ở thành phố Hà Tĩnh. Chị bị bệnh ung thu phổi khi đang mang thai con ở tuần thứ 11 nhưng đã quyết định trì hoãn điều trị ung thư để giữ lại sinh mạng của con. Sau khoản thời gian con chào đời không được bao lâu thì chị đã qua đời vì không đủ sức khỏe chống chọi lại căn bệnh quái ác.
Các bước trong cách viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí
Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí thường đưa ra những yêu cầu bàn luận về: câu nói, quan điểm sống hay phẩm chất, đức tính của con người.
Ví dụ một số đề về tư tưởng đạo lí:
Ra đề thông qua một câu nói: Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kì quan, nhưng kì quan đẹp tuyệt vời nhất là trái tim người mẹ”. Ý kiến của anh/chị về câu nói trên.
Đề văn về phẩm chất, đức tính: Suy nghĩ của anh/chị về đức tính trung thực.
Dạng đề nghị luận về hiện tượng kỳ lạ đời sống
Dạng đề nghị luận về hiện tượng kỳ lạ đời sống là những vấn đề, sự việc, hiện tượng kỳ lạ có đã xẩy ra và đang xẩy ra trong cuộc sống của con người.
Một số đề ví dụ về hiện tượng kỳ lạ đời sống như:
Trình bày suy nghĩ về vấn đề sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay.
Anh/chị có suy nghĩ gì về trách nhiệm của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm thiểu tai nạn thương tâm giao thông?
Nhận xét: Mỗi một vấn đề được đưa ra có thể là đạo lí, hiện tượng kỳ lạ tích cực, nhưng cũng luôn tồn tại thể là hiện tượng kỳ lạ tiêu cực, tư tưởng phản nhân văn. Trước mỗi vấn đề người viết cũng cần phải xác định đúng tính chất, đặc điểm của nó để sở hữu thể thể hiện quan điểm đồng tình hay là không đồng tình một cách rõ ràng. Ví dụ một số vấn đề tích cực hay tiêu cực có thể được đưa ra như:
Đạo lí, tư tưởng:
Đạo lí, tư tưởng tích cực: lòng dũng cảm, khoan dung, ý chí, nghị lực.
Tư tưởng phản nhân văn: thù hận, ích kỷ, đố kỵ, dối trá.
Tư tưởng có tính hai mặt: sự mong đợi.
Hiện tượng kỳ lạ đời sống:
Tích cực: tiếp sức ngày thu, hiến máu nhân đạo.
Tiêu cực: đấm đá bạo lực học đường, ô nhiễm môi trường tự nhiên, tai nạn thương tâm giao thông.
Có cả tích cực và tiêu cực: sử dụng social, thiết bị điện tử.
Như đã đề cập trong phần trên, khi đưa ra yêu cầu viết đoạn văn thì đề được ra sẽ không còn làm khó người viết trình bày hết những nội dung cần viết trong như một bài văn nghị luận. Mỗi đề thi thường sẽ sở hữu một yêu cầu cụ thể về việc người viết cần tập trung vào phần viết nào của vấn đề nghị luận. Chẳng hạn, trong đề thi Ngữ văn trong kì thi trung học phổ thông Quốc gia năm 2023 có yêu cầu câu viết đoạn văn như sau: Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng tầm 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc thấu cảm trong cuộc sống.
Như vậy, trong đề văn trên, yêu cầu trọng tâm là nêu ý nghĩa của sự thấu cảm, tức là trong nội dung bài viết, người viết cần xoáy sâu vào những giá trị tốt đẹp, tích cực hay tác dụng, giá trị mà đức tính ấy mang lại cho cuộc sống con người. Trong tiếng Anh, khi tất cả chúng ta nêu ra các ý nghĩa như yêu cầu thì tức là đang trả lời cho vướng mắc “What” (Sự thấu cảm mang lại ý nghĩa gì?).
Với vướng mắc “điều bản thân cần làm” thì đề đang hướng người đọc đến việc trình bày giải pháp. Lúc này, người viết sẽ tập trung trình bày những việc làm có thể thực hiện thay vì đi sâu phân tích ý nghĩa của sự thấu cảm như đề thi 2023. Như vậy, khi nêu ra giải pháp, tất cả chúng ta đang thực hiện yêu cầu đề dựa vào vướng mắc “How” (Điều bản thân cần làm thế nào để thể hiện sự thấu cảm?).
Như vậy, với bất kì một đề thi nào được ra, để xác định đúng yêu cầu đề, người viết cần tìm được từ chìa khóa xuất hiện trong đề. Ví dụ như:
Giải thích, nêu nguyên nhân : tại sao, do đâu, trình bày nguyên nhân, trình bày cách hiểu, giải thích…
Nêu ý kiến member: đồng tình hay là không đồng tình, nêu suy nghĩ member, trình bày ý kiến bản thân…
Bàn nội dung: nêu ý nghĩa, nêu giá trị…
Đưa giải pháp: làm thế nào, làm thế nào, điều cần làm…
Mỗi từ chìa khóa sẽ là một gợi ý để học sinh có định hướng đúng và viết tốt phần đoạn văn.
Sau khoản thời gian xác định được trọng tâm cần viết trong đoạn, tất cả chúng ta có thể lên ý tưởng về những điều cần viết xoay quanh vấn đề cần viết. Bước này cần được thực hiện trên giấy nháp để khi người viết không bị quên và bỏ sót những điều đã suy nghĩ trong đầu. Đồng thời, khi xác định những ý cần viết, người viết cũng nên dảnh chút thời gian để suy nghĩ về những dẫn chứng để minh họa cho phần lí lẽ của mình. Cách đơn giản để sở hữu thể tìm được ý cho phần viết là thử tự đặt và trả lời các vướng mắc, ví dụ như:
Vấn đề đề ra được hiểu thế nào?.
Tại sao lại cần có/ không nên có có vấn đề đó trong cuộc sống?.
Vấn đề đề ra cần được đồng tình/ phản đối hay có chỗ đồng tình, có chỗ phản đối?.
Vấn đề có những biểu hiện thế nào trong cuộc sống?.
Cần phải làm những gì để ngăn chặn/ phát huy vấn đề trên?.
Tạo mở đoạn trong cách viết đoạn văn nghị luậnVới phần mở đoạn, ta nên trực tiếp đi vào việc thay vì dẫn dắt dài dòng, lan man. Học sinh nên mở đoạn trong phạm vi 1 câu vì giới hạn viết chỉ là một đoạn văn ngắn. Người viết có thể trích dẫn câu nói trong đề rồi dẫn dắt ngắn gọn và đi thẳng vào việc nghị luận.
Cách viết đoạn văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lý, hiện tượng kỳ lạ đời sống
Tạo thân đoạn trong cách viết đoạn văn nghị luậnTrong phần này, học sinh cần xác định đúng yêu cầu đề thông qua các từ khóa. Từ việc xác định đúng từ khóa, người viết chọn phần viết phù hợp để triển khai cụ thể yêu cầu đó. Đó có thể là phần giải thích, nêu nguyên nhân, cũng luôn tồn tại thể là phần viết về ý nghĩa hay trình bày những giải pháp.
Trong những khi triển khai, để làm rõ các ý trình bày trong nội dung bài viết cần phải có cơ sở để giúp người đọc, người nghe thuyết phục. Lúc này, học sinh cần đưa ra các dẫn chứng từ thực tế. Tránh trường hợp kể dẫn chứng quá dài dòng, học sinh nên nêu ngắn gọn theo như hình thức tóm tắt dẫn chứng. Nên chọn ít nhất 1 – 2 dẫn chứng để minh chứng cho điều đã viết. Khi đưa ra dẫn chứng là người viết đang thể hiện được việc “nói có sách, mách có chứng”, có như vậy mới có thể tạo lấy được lòng tin cho những người đọc về phần viết của mình.
Dạng đề giải thích, nêu nguyên nhân:
Giải thích ngắn gọn vấn đề được yêu cầu nghị luận.
Nêu nguyên nhân trên hai cơ sở: Khách quan và chủ quan.
Nêu 1 – 2 dẫn chứng chứng minh.
Dạng đề nêu biểu hiện, thực trạng:
Trình bày biểu hiện của vấn đề trên phương diện từ nhỏ đến lớn (member, tập thể, cộng đồng)
Nêu 1 – 2 dẫn chứng về biểu hiện đó trong cuộc sống.
Dạng nêu ý kiến member:
Trả lời rõ ràng: đồng tình hay là không đồng tình, đồng tình một phần hay phản đối.
Lí giải vì sao đưa ra ý kiến trên. Ý kiến member được khuyến khích trình bày nhưng phải nhờ trên cơ sở của chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
Nêu 1 – 2 dẫn chứng để làm sáng tỏ ý kiến.
Dạng đề nêu ý nghĩa, giá trị vấn đề:
Nêu những ý nghĩa của vấn đề khi đối chiếu với bản thân, tập thể, xã hội.
Nêu ý nghĩa của vấn đề theo trục thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Nêu 1 – 2 dẫn chứng để tăng tính thuyết phục.
Dạng đề nêu giải pháp:
Đề xuất giải pháp: với cộng đồng, xã hội và từng người.
Nêu 1 – 2 dẫn chứng.
Tạo kết đoạn trong cách viết đoạn văn nghị luậnViết trong một câu văn và trong câu văn nên chuyển tải thông điệp để tạo điểm nhấn. Câu kết đoạn cũng luôn tồn tại thể trích lại một lời phát biểu, một câu nói của người nổi tiếng để mang lại ấn tượng và hiệu quả.
Tu khoa lien quan:
cách viết đoạn văn nghị luận lớp 7
cách viết đoạn văn nghị luận lớp 8
cách viết đoạn văn nghị luận lớp 10
cách viết đoạn văn nghị luận văn học
cách viết một đoạn văn nghị luận xã hội
sơ đồ cấu trúc đoạn văn nghị luận xã hội
cách viết đoạn văn nghị luận xã hội lớp 9
cách làm đoạn văn nghị luận xã hội lớp 9
cách viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ
cách viết đoạn văn nghị luận về hiện tượng kỳ lạ đời sống
Cập nhật thông tin chi tiết về Gợi Ý Viết Văn Nghị Luận Xã Hội trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!