Bạn đang xem bài viết Kết Luận Về Nội Dung Đơn Của Công Dân Tố Cáo Dấu Hiệu Trốn Thuế Và Xuất Lậu Khoáng Sản Của Công Ty Cp Đầu Tư Khoáng Sản Và Tm Bình Thuận được cập nhật mới nhất trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Kết luận về nội dung đơn của công dân tố cáo dấu hiệu trốn thuế và xuất lậu khoáng sản của Công ty CP đầu tư khoáng sản và TM Bình ThuậnI. Nội dung đơn nêu về dấu hiệu trốn thuế, xuất lậu khoáng sản:
1. Về dấu hiệu trốn thuế của công ty khoáng sản Bình Thuận.
Căn cứ kết quả kiểm tra hồ sơ, ý kiến của các cơ quan chuyên môn, giải trình của người bị tố cáo, báo cáo của Đoàn kiểm tra, xác minh, Tổng cục Hải quan nhận thấy có những dấu hiệu của hành vi trốn thuế như sau:
Thứ nhất: Nhiều bộ hồ sơ thể hiện một số mâu thuẫn, như hợp đồng mua bán ký kết với đối tác nước ngoài, thể hiện cùng một người mua nhưng lại có con dấu khác nhau, con dấu của công ty này nhưng lại đóng vào hợp đồng của công ty khác.
Thứ hai: Nội dung của các hợp đồng đều nêu “This contract is made by fax and becomes effective from the signing date” Dịch sang tiếng việt là: “Hợp đồng này được chuyển bằng fax và có giá trị kể từ ngày ký”. Tuy nhiên, bản hợp đồng trên không thể hiện dấu hiệu của fax trên hợp đồng.
Tổng giám đốc công ty khoáng sản Bình Thuận thừa nhận các hợp đồng mua bán đều được ký kết qua fax.
Thứ ba: Về phương thức thanh toán: Nội dung các hợp đồng mua bán thể hiện là thanh toán qua tài khoản của công ty khoáng sản Bình Thuận mở tại ngân hàng. Tuy nhiên, trên 37 hợp đồng trên không thể hiện số tài khoản của người mua (doanh nghiệp phía Trung Quốc).
Các hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp phía Trung Quốc ( 37 hợp đồng từ năm 2009 đến năm 2012) của Công ty khoáng sản Bình Thuận đều được thể hiện là 02 bên cam kết thanh toán 100% tiền mua hàng từ tài khoản người mua, không có điều khoản nào thể hiện thực hiện thanh toán qua tài khoản của người trung gian hoặc người môi giới mua bán hàng (kèm theo 37 hợp đồng).
Tuy nhiên qua tra soát thấy một số giao dịch thanh toán tiền mua hàng không phải là tư cách pháp nhân được ghi trên hợp đồng thương mại mà bên mua và bên bán đã cam kết (không do người mua hàng ghi trên hợp đồng thanh toán tiền hàng), cụ thể: Ngân hàng Exim Bank: Giao dịch ngày 13/2/2012, người thanh toán Surewin Trade; giao dịch ngày 16/4/2012, người thanh toán Cheng Sui Ha; giao dịch ngày 27/6/2012, người thanh toán Fujian Yuanguang. Ngân hàng Standard Chartered: Giao dịch ngày 9/7/2010, người thanh toán Hong Yin Trading CO. Ngân hàng TMCP Quân Đội –Chi nhánh TP. Hầu hết các giao dịch không xác định được rõ người thanh toán (kèm theo các tài liệu mà ngân hàng cung cấp).
Thứ tư: Căn cứ vào thông tin Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an cung cấp thì một số lần Tổng giám đốc ở nước ngoài (ông Tô Tài Tích) nhưng hợp đồng vẫn được ký kết và đóng dấu tại công ty khoáng sản Bình Thuận cùng ngày ông Tô Tài Tích ở nước ngoài. Trong khi đó, ông Tô Tài Tích cho rằng các hợp đồng mua bán để xuất khẩu quặng được ký kết tại trụ sở công ty tại Bình thuận.
Như vậy, ông Tô Tài Tích không thể vừa ở nước ngoài vừa ký hợp đồng mua bán với đối tác tại Trụ sở công ty được. Cụ thể các hợp đồng sau:
– Hợp đồng số 04XK ngày 12/3/2010, bên mua là Công ty Fangcheng port city Rongxin Minning; Hợp đồng số 05XK ngày 12/3/2010, bên mua là Công ty Zhanjiang Dongya mineral (Thời gian này ông Tô Tài Tích đang ở nước ngoài, xuất cảnh ngày 08/03/2010 và đến ngày 23/03/2010 mới nhập cảnh về nước)
– Hợp đồng số 20XK 30/11/2010, bên mua là Công ty Zhanjiang Dongya mineral; Hợp đồng số 21XK ngày 30/11/2010, bên mua là Công ty Fangcheng port city Rongxin Minning (Thời gian ông Tô Tài Tích đang ở nước ngoài, xuất cảnh ngày 26/11/2010 và đến ngày 14/12/2010 mới nhập cảnh về nước)
Thứ năm: Căn cứ kết quả xác minh các doanh nghiệp Trung Quốc:
Ngày 17/9/2013, Cục chống buôn lậu – Cao Ủy Hải quan Trung Quốc đã có thư trả lời cụ thể (kèm theo thư phúc đáp) như sau:
10 công ty Trung Quốc này có tồn tại và đã đăng ký trong hồ sơ hải quan. Tuy nhiên, tên của 07 công ty không đồng nhất với con dấu trong hợp đồng và các địa chỉ ghi trên hợp đồng cũng không thể tìm thấy. 07 công ty lần lượt là: Fang cheng Port City Rongxin Mining Co.,Ltd; QinZhou Qinnan District Jiahua Import and Export Trading Co.,Ltd; Guangxi QinZhou Yuan Quan Trading Co.,Ltd; Maoling Ubridge Group Mineral Industry Co.,Ltd; fangchen Gang city Qihang Minerals.,Ltd; Guangxi GuangBao Mining Co.,Ltd và Guangxi Qinzhou Coastal mining Co.,Ltd.
Thứ sáu: Căn cứ kết quả giám định số 114/CV/ ngày 21/08/2013 của Phân viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát PCTP tại TP. Hồ Chí Minh đã kết luận giám định 37 hợp đồng xuất khẩu giữa công ty khoáng sản Bình Thuận và các doanh nghiệp Trung Quốc (kèm theo kết luận giám định) như sau:
Quá trình nghiên cứu giám định phát hiện “37 Contract” gửi giám định là được làm giả bằng phương pháp photocoppy hình dấu từ tài liệu khác vào vị trí dưới mục “For The Buyer…”
Như vậy, với kết luận giám định hình sự trên thì toàn bộ 37 hợp đồng mua bán quặng trên được làm giả thì Công ty khoáng sản Bình Thuận đã có hành vi giả mạo hồ sơ hải quan để nhằm mục đích gian lận trốn thuế.
2. Về dấu hiệu buôn lậu, trốn thuế của công ty KS Bình Thuận.
Căn cứ kết quả kiểm tra hồ sơ, báo cáo của Đoàn kiểm tra, xác minh, Tổng cục Hải quan nhận thấy một số cơ sở về dấu hiệu xuất lậu khoáng sản như sau:
Thứ nhất: Một số trường hợp công ty có ký hợp đồng mua bán quặng với Công ty khoáng sản Bình Thuận nhưng thực tế một số hợp đồng không được thực hiện theo đúng nội dung đã ký. Tuy nhiên, Công ty khoáng sản Bình thuận vẫn phát hành hóa đơn và kê khai thuế đầu ra. Từ đó, cho thấy có dấu hiệu lợi dụng tư cách pháp nhân của một số công ty để hợp thức hóa chứng từ đi đường với mục đích xuất bán hàng cho đối tượng khách hàng khác không rõ địa chỉ, tổ chức…
Thứ hai: Một số trường hợp thanh toán tiền mua hàng không phải do Doanh nghiệp mua hàng ký và đóng dấu trên hợp đồng thanh toán mà do cá nhân hoặc tổ chức khác thanh toán hộ hoặc do cá nhân tự nộp tiền vào tài khoản của Công ty khoáng sản Bình Thuận; hợp thức hóa thanh toán qua ngân hàng để được khấu trừ thuế (đối với Doanh nghiệp có kê khai thuế – thực tế không có việc mua bán hàng hóa nhưng vẫn kê khai hóa đơn đã phát hành của Công ty khoáng sản Bình Thuận để được khấu trừ thuế) và đảm bảo điều kiện thanh toán được ghi trên hợp đồng (đối với Công ty khoáng sản Bình Thuận).
Căn cứ vào tài liệu ngân hàng cung cấp cho thấy một số các chứng từ có dấu hiệu nhân viên của Công ty khoáng sản Bình thuận tự nộp tiền vào tài khoản (giả người mua hàng) và sau đó lại tự rút tiền ra. Như vậy, với hình thức này công ty khoáng sản Bình Thuận đã hợp thức hóa bằng cách có giao dịch thanh toán qua ngân hàng.
Thứ ba: Một số trường hợp doanh nghiệp có ký hợp đồng mua hàng, không kê khai hóa đơn đầu vào do Công ty khoáng sản Bình Thuận phát hành với cơ quan thuế nhưng thực chất vẫn có việc thanh toán tiền mua hàng qua tài khoản. Như vậy việc luân chuyển của số lượng hàng hóa này nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý thuế.
Thứ tư: Một số trường hợp doanh nghiệp chỉ thành lập với thời gian ngắn và sau đấy giải thể. Khi tiến hành xác minh cho thấy giám đốc doanh nghiệp chỉ là những nhân viên làm nghề cắt tóc gội đầu nhưng lại ký hợp đồng mua bán quặng với công ty khoáng sản Bình Thuận và không có kê khai thuế tại cơ quan thuế địa phương và không rõ số lượng hàng này được bán tiếp cho đơn vị nào trong nội địa hay đã xuất lậu.
Trên cơ sở phân tích tại phần kết quả, Tổng cục Hải quan nhận thấy có việc buôn bán lòng vòng trong nước, nhưng một số doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng mà không nhận được hàng, không thanh toán, trong khi đó tài khoản của công ty khoáng sản Bình Thuận mở tại ngân hàng vẫn thể hiện đã được thanh toán. Từ đó, Tổng cục Hải quan nhận định có dấu hiệu xuất lậu, trốn thuế đối với mặt hàng khoáng sản.
II. Kết luận về các nội dung tố cáo:
1. Về nội dung tố cáo dấu hiệu trốn thuế: Đơn tố cáo nêu công ty cổ phần đầu tư khoáng sản và thương mại Bình Thuận có hành vi khai gian thuế, có dấu hiệu lập hợp đồng xuất khẩu giả, dấu hiệu trốn thuế là có cơ sở.
2. Về nội dung tố cáo dấu hiệu buôn lậu, trốn thuế: Đơn tố cáo nêu Công ty CP đầu tư khoáng sản và TM Bình Thuận có dấu hiệu “bán lậu khoáng sản titan..” là có cơ sở.
Căn cứ khoản 3, Điều 25 Luật tố cáo, trong quá trình giải quyết đơn tố cáo của công dân, phát hiện dấu hiệu trốn thuế và dấu hiệu xuất lậu khoáng sản nêu trên Tổng cục Hải quan đã chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra- Bộ công an để làm rõ theo thẩm quyền.
Đơn Đề Nghị Cấp Giấy Phép Khai Thác Khoáng Sản
Mẫu đơn xin cấp phép khai thác khoáng sản
Đơn đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản mới nhấthoatieu.vn xin giới thiệu tới các bạn Đơn đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản được ban hành kèm theo Thông tư 45/2016/TT-BTNMT ngày 30/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Mời các bạn tham khảo.
Nội dung của Đơn đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sảnCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Địa danh, ngày… tháng… năm… ĐƠN ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
(Tên tổ chức, cá nhân)
Trụ sở tại:…………………………………………………..
Điện thoại: ……………………………………. Fax:……………………………………………
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số… ngày… tháng… năm….do… (tên cơ quan) cấp; hoặc Giấy phép đầu tư số…. ngày…. tháng…. năm… do … (Cơ quan cấp giấy phép đầu tư) cấp.
Báo cáo kết quả thăm dò (tên khoáng sản)………. tại xã…….. huyện….tỉnh…. đã được …… (cơ quan phê duyệt) phê duyệt theo Quyết định số ……. ngày…. tháng…. năm….
Trữ lượng ………(tên khoáng sản) được phê duyệt: ….(tấn, m 3,…).
Đề nghị được cấp phép khai thác (tên khoáng sản)…………… tại khu vực ………. thuộc xã ……… huyện……….. tỉnh………. với các nội dung như sau:
Diện tích khu vực khai thác:………….(ha, km 2), được giới hạn bởi các điểm góc: có tọa độ xác định trên bản đồ khu vực khai thác khoáng sản kèm theo.
Trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác: ………………. (tấn, m 3,…).
Trữ lượng khai thác: ……………… (tấn, m 3,…).
Phương pháp khai thác: ………………. (Hầm lò/lộ thiên).
Công suất khai thác: …………….. (tấn, m 3,…) /năm.
Mức sâu khai thác: từ mức … m đến mức … m.
Thời hạn khai thác: ………… năm, kể từ ngày ký giấy phép. Trong đó thời gian xây dựng cơ bản mỏ là:….năm (tháng).
Mục đích sử dụng khoáng sản:
Đơn đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sảnKết Quả Ban Đầu Về Đơn Tố Cáo Của Tập Thể Đối Với Hiệu Trưởng Trường Mầm Non Sao Mai
Đến tháng 9-2017, cô B. xin nghỉ vì lý do mẹ bị bệnh hiểm nghèo, cũng thời gian này cô B sinh con thứ 3, thời gian nghỉ xác định là 3,5 tháng. Sau thời gian trên cô B. đi làm lại, Nhà trường đã yêu cầu cô B. viết tường trình việc sinh con thứ 3 để có cơ sở báo cáo lên các cấp theo quy định, nhưng cô B. vẫn chưa kịp viết thì xảy ra vụ việc này.
Về phía cô Phan Thị Hậu – Hiệu trưởng trường Mầm non Sao Mai, cô Hậu thừa nhận trong năm 2023 tại trường có cô giáo tên N.T.T.B. sinh con thứ 3, xin nghỉ thời gian 3,5 tháng.
Cô Hậu cũng hoàn toàn không biết việc cô B. ghi âm nội dung cuộc trao đổi giữa cô và cô B. trước đó và cũng không nhớ hết các tình tiết trong quá trình trao đổi nên mong muốn các cơ quan làm rõ nội dung trong đoạn ghi âm.
Cô Phan Thị Hậu cũng đã thành khẩn xin lỗi tập thể nhà trường về những lời nói và hành động chưa đúng mực và hứa sẽ khắc phục từ ngày 13-4.
Ngoài ra, cũng thời gian tháng 4-2018, Phòng GD&ĐT có tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo của ông T.N.Đ.T, trú tại thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa và đơn khiếu nại, tố cáo tự xưng là tập thể chồng của một số giáo viên Trường Mầm non Sao Mai (thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa).
Theo kết quả bước đầu xác minh các nội dung nêu trong đơn, trước hết, về việc giáo viên làm thêm ngoài giờ quá nhiều, kể cả thứ 7 và chủ nhật, thậm chí đến 20 giờ-21 giờ đêm nhưng không có tiền làm ngoài giờ.
Xác minh việc này là có thật, vì thời điểm xác định nằm trong thời gian tổ chức Hội thi “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” do ngành GD&ĐT Quảng Ngãi phát động, thời gian thi cấp huyện từ 13-3-2018 đến 6-4-2018. Nhà trường phải chuẩn bị thi, thời gian làm việc chủ yếu thứ 7, chủ nhật, riêng ban đêm huy động làm thêm ngày 29-3 nhưng chỉ làm đến 18 giờ 30 phút, chứ không phải 20-21 giờ như trong đơn khiếu nại, tố cáo. Trường hợp giáo viên ốm đau, có con nhỏ, gia đình có việc đều được cho nghỉ lo việc riêng.
Về việc bắt buộc giáo viên và phụ huynh làm các công trình xã hội hóa trong khi đó đã thu tiền xã hội hóa của phụ huynh là 300.000 đồng/cháu. Qua kiểm tra xác minh, các khoản thu trong năm học 2023-2018 là 65 triệu đồng, trong đó xây dựng khu giáo dục thể chất, làm mái hiên che sau bếp và mái hiên góc thư viện, hiện đã làm xong nhưng chưa thanh toán. Điều này thực hiện đúng quy trình xã hội hóa.
Về việc nhận một số cháu không đúng quy định theo Điều lệ trường Mầm non, Tổ kiểm tra xác định, phản ánh đơn khiếu nại là đúng. Nguyên nhân xác định là do khu dân cư mở rộng trên địa bàn thị trấn ngày càng hoàn thiện, dân cư tăng đột biến, nhu cầu gửi con lớn,… Số trẻ có vượt so với quy định nhưng hiện tại vẫn đủ tỷ lệ giáo viên trên lớp, Tổ kiểm tra yêu cầu Nhà trường có biện pháp khắc phục trong thời gian đến.
Về việc giáo viên cho các cháu ăn sáng nhưng không có tiền bồi dưỡng. Tổ kiểm tra ban đầu xác minh, từ tháng 9-2017, Nhà trường tổ chức bữa ăn sáng cho các cháu và thỏa thuận phụ huynh số tiền thu thêm là 5.000 đồng/cháu/tháng, trong đó trích 1.000 đồng/cháu để trả tiền bồi dưỡng cho cấp dưỡng, số tiền còn lại (trong số 1.000 đồng) nhà trường trích bổ sung vào quỹ Công đoàn để chi các hoạt động như quà các ngày lễ, tết, đồng phục,… và đã thống nhất trong Ban giám hiệu và Liên tịch Nhà trường, nhưng chưa thông qua hội đồng giáo viên của trường, số tiền trích chuyển cho Công đoàn từ đầu năm học đến nay là 9 triệu.
Về việc này, Tổ Kiểm tra yêu cầu Công đoàn phải trả số tiền trên cho Nhà trường và đề nghị Nhà trường chi đúng mục đích.
Trước mắt, Phòng GD&ĐT huyện yêu cầu tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trường bình tĩnh, đoàn kết, nâng cao tinh thần trách nhiệm, không khoét sâu mâu thuẫn,… Tập thể, cá nhân có những khuyết điểm phải thành khẩn khắc phục sửa chữa. Hiện vụ việc vẫn đang tiếp tục điều tra làm rõ.
Ông Trương Quang Dũng, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tư Nghĩa, cũng cho biết thêm, hiện huyện đang lập đoàn thanh tra để điều tra vụ việc.
NGUYỄN TRANG
Khám Phá Quy Trình Sản Xuất Nội Dung Tại Vbs
“Mỗi bài viết 30 phút chứ mấy”
“Hồi xưa anh viết mỗi ngày 5-6 bài, giờ không có thời gian mới tìm đến tụi em”
“Bài viết có 1 trang A4 mà lấy giá cao thế em?”
…
Khách hàng không phải là những người đáng trách như cách mà “dân trong nghề” hay nói về khách hàng bằng một giọng văn lạt nhách và không thiện cảm. Khách hàng là những người giỏi trong lĩnh vực của họ và đang cần chúng ta để giúp họ đạt được những thành tựu lớn hơn về doanh số, về thương hiệu, … Vì khách hàng không hiểu công việc chúng ta đang làm, nên họ mới cảm thấy “không xứng đáng” khi bỏ tiền ra. Nếu khách hàng hiểu hết các công đoạn, cách chúng ta suy nghĩ và làm việc, cách chúng ta thay họ sáng tạo, … họ sẽ có cái nhìn khác đi, họ sẽ hiểu giá trị thực mà họ nhận được là tương xứng với giá trị họ đã bỏ ra, từ đó, sự hợp tác giữa đôi bên ngày càng bền vững.
#1: Copywriter – họ là ai và thực sự làm gì?Là người đánh máy, là người “Copy” rồi “Write” lại cho ra bài viết.
Là người chuyên xào nấu bài viết từ các website khác.
Là người chỉ viết những bài giật title câu view và không hiểu/không màn đến sản phẩm, thương hiệu.
Hiểu đúng
Là những người truyền tải thông điệp, nội dung chính của sản phẩm/dịch vụ một cách dễ hiểu, thu hút đến người đọc.
Là người không chỉ có vốn từ phong phú hay lời hay ý đẹp, mà phải biết dùng đúng nhóm từ này với sản phẩm này, dùng đúng nhóm từ khác với dịch vụ khác và biết nên viết thế nào cho lay động chứ không chỉ là hoa mỹ, là cao siêu.
Là người không chỉ biết viết là đủ, mà còn phải biết cách lên kế hoạch, lập dàn ý, tự đề nghị và bác bỏ các ý, chỉnh sửa lại chính bài của mình, tìm cách thay thế cho súc tích hơn, dễ hiểu hơn và hay hơn.
Là người phải nắm bắt nhiều thông tin chính thống, biết tìm mối liên hệ giữa các sự kiện, vấn đề.
Là người logic và mạch lạc.
Là người sáng tạo nhưng hiểu khuôn khổ.
Là người đúng deadline, dù sáng tạo cần cảm hứng nhiều hơn, nhưng vẫn phải hoàn thành đúng hẹn.
Là người không chỉ đặt bút là viết, một cách máy móc và nhàm chán, họ còn sáng tạo và kể những câu chuyện, gợi những hình ảnh, kí ức, tương lai, sự tốt đẹp, yêu thích, … với sản phẩm/dịch vụ.
#2: Quy trình sản xuất nội dung như thế nào?Để cho ra lò một bài viết chất lượng, cũng giống như một sản phẩm tốt, phải qua rất nhiều khâu. Một cái bánh ngọt không thể làm hài lòng thực khách nếu được làm ra bởi một người thợ không có tâm, không có tình cảm với nó, không cho thêm gia vị tình yêu vào đó và không trang trí tỉ mẫn.
Bước 1: Tìm hiểu sản phẩm/dịch vụKhông biết mình sẽ làm bánh gì, điểm đặc biệt của bánh là gì thì sẽ làm bánh đó như thế nào và thuyết phục người ăn bằng cách nào?
Để tìm hiểu sản phẩm/dịch vụ, phải tìm hiểu từ chính người am hiểu nhất và người muốn dùng nhất – chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Lắng nghe chủ doanh nghiệp nói về sản phẩm/dịch vụ của họ.
Tìm hiểu về sản phẩm/dịch vụ thông qua tài liệu do doanh nghiệp cung cấp và các tài liệu chính thống trên mạng.
Tìm hiểu nhu cầu, yêu cầu của người dùng với sản phẩm/dịch vụ này. Họ thích gì, ghét gì, muốn điều gì tốt hơn? …
Hiểu sản phẩm để biết nhiều hướng khai thác hơn, hiểu được đâu là yếu tố trọng tâm làm nên sự khác biệt của sản phẩm/dịch vụ so với những sản phẩm/dịch vụ khác. Hiểu sản phẩm để có thể dùng ngôn từ sắc bén và chính xác nhất để diễn tả, để kể về.
Bước 2: Lên kế hoạch – ý tưởngMột cái bánh ngon cần được lên ý tưởng và kế hoạch trước: thành phần nguyên liệu, cách làm, điểm nhấn, vị chủ đạo, …
Thông thường, khách hàng sẽ ít khi chỉ cần 1 bài viết. Mà họ cần 1 chuỗi bài, một cách thường xuyên. Nội dung phải nhất quán với đường lối chiến lược marketing chung của sản phẩm/dịch vụ. Như vậy, trước khi viết, cần phải có bước lên kế hoạch cụ thể:
Hướng đi cho các bài viết.
Sự liên kết với nhau và liên kết với chiến lược marketing.
Bổ sung cho nhau và làm nổi bật nhau.
Vẽ ra các nhánh để không trùng lắp.
Triển khai bài nào trước, bài nào sau, viết thế nào, phong cách gì, dàn ý ra sao, …
Một cái bánh ngon không thể làm tùy ý, thành bánh rồi mới bắt đầu sửa lại vị theo yêu cầu của từng khách hàng.
Nội dung phải được duyệt layout trước khi bắt đầu vào viết. Vì khách hàng thường không nắm rõ công việc của Copywriter, nên nếu không có bước đệm này, bài viết sẽ gặp nhiều khó khăn sau này. Đặc biệt là với khách hàng không hình dung ra bài viết sẽ thế nào hay chưa nêu rõ quan điểm, yêu cầu của mình.
Layout cũng giúp tiết kiệm thời gian cho 2 bên, vì khách hàng sẽ không thể đòi viết bài mới, không đòi thêm ý này, ý kia sau khi gửi bài viết đã viết dựa trên layout đã duyệt. Có một sự so sánh nhỏ về cách làm việc của người Việt và người Mỹ như thế này (không thể nào đúng 100% nhưng sẽ đúng phần lớn): người Mỹ sẽ dành rất nhiều thời gian để đọc bản kế hoạch và ý tưởng của bạn, họ rất khắc khe với kế hoạch, họ sẽ dập bạn tơi bời để có được kế hoạch hoàn hảo như ý họ muốn, và sau đó cứ căn vào kế hoạch mà làm, không thêm, không bớt. Nhưng người Việt thì khác, họ xuề xòa ngay từ đầu, cũng chính vì ngại tìm hiểu, ngại đọc, nên họ chỉ muốn “đơn giản”, nhưng sau đó lại muốn thêm rất nhiều thứ không có trong kế hoạch ban đầu, chỉ vì họ vừa nảy ra ý định mới hay nghĩ rằng những thứ thêm thắt đó cũng đơn giản thôi, nhanh chóng thôi.
Layout được xem như dàn ý, diễn giải ý tưởng và những gì sẽ viết, để khách hàng nhìn thấy một cách bao quát nhất về nội dung mà họ sẽ có. Với 1-2 bài viết, layout có vẻ không có gì quan trọng ngoài việc cho khách hàng thấy và là giấy thông hành thông qua chặng đầu. Nhưng với 10 bài, 100 bài trong 3-4 tháng, thì layout chính là cứu cánh cho các Copywriter. Bạn tốn 18 tiếng để lên layout nhưng sẽ tiết kiệm được 36 tiếng vì không cần phải suy nghĩ hướng viết sau này.
Bước 4: Viết và chỉnh sửaSau khi chuẩn bị xong các nguyên liệu, chúng ta bắt tay vào làm bánh.
Khâu này buộc người viết phải tập trung. Sau khi đã có layout sẵn sàng, ý tưởng sẵn có, thì việc trình bày thế nào, viết câu nào sẽ thuyết phục hơn, cách diễn giải này hay cách ví dụ kia, thay đổi cụm từ này, câu cú kia, … sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bài viết.
Nhưng viết chỉ là một chuyện, chuyện chỉnh sửa để được duyệt lần cuối cùng mới là quá trình cam go. Bạn nên nghĩ là bài viết sẽ phải sửa đến 10 lần. Từ chính ý tưởng đó, phải thay đổi đến khi nào khách hàng chấp nhận. Mặc dù, với Copywriter, việc sửa bài quá nhiều sẽ gây ra “sự chùn” hay có thể gọi là hết cảm hứng.
Bước 5: Hình ảnh và hoàn thiệnTrang trí sau khi bánh đã ra lò và trưng bày và bắt đầu thu hút khách hàng.
#3: Những khó khăn Copywriter gặp phảiThiếu thông tin: Khách hàng không cung cấp đủ thông tin để viết, do Copywriter không hỏi đủ, hỏi đúng hoặc bản thân sản phẩm/dịch vụ cũng chưa có điểm cạnh tranh.
Khách hàng và Copywriter không hiểu nhau: Khách hàng không hiểu tầm quan trọng của công việc, khách hàng xem nhẹ công việc. Hai bên không hiểu nhau và không nhường nhịn nhau dẫn đến kết quả công việc không đạt yêu cầu.
Không đủ thời gian: Copywriter không chỉ làm 1 task duy nhất, mà phải xử lí cùng lúc rất nhiều việc và luôn trong tình trạng thiếu thời gian. Một phần là do yêu cầu của nhiều khách cùng lúc, một phần là Copywriter chưa quản lí thời gian của mình vừa hiệu quả vừa phải thật giàu cảm hứng.
Cái tôi quá lớn: Cái tôi lớn, luôn muốn bảo vệ ý kiến của mình nên xảy ra tranh luận với khách hàng, dẫn đến bài viết không được duyệt hoặc làm chưa hết sức.
Không đủ đam mê: Nghề nào cũng có cái khó riêng, nhưng nếu không đủ đam mê thì dù con đường có bằng phẳng cũng khó có được sự thăng hoa trong công việc và vượt qua giới hạn của bản thân.
—
Cập nhật thông tin chi tiết về Kết Luận Về Nội Dung Đơn Của Công Dân Tố Cáo Dấu Hiệu Trốn Thuế Và Xuất Lậu Khoáng Sản Của Công Ty Cp Đầu Tư Khoáng Sản Và Tm Bình Thuận trên website Ezlearning.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!