Viết chữ Hán bằng bút lông
Mao bút thư pháp
毛 筆 書 法
Viết chữ Hán cũng là một nghệ thuật, góp phần rèn luyện và nâng cao khiếu thẩm mỹ. Trung Quốc gọi là Thư Pháp
書法
(shūfǎ), Nhật Bản gọi là Thư Đạo
書道(shodō). Người Trung Quốc nói: «Thư pháp khả dĩ tu tâm dưỡng tánh, đào dã tâm tình.»
書法可伍修身養性陶冶心情
(Thư pháp có thể giúp ta tu tâm, dưỡng tánh, rèn luyện tình cảm). Viết chữ Hán bằng mao bút mới là chính tông. Khi khổ luyện thư pháp với mao bút thì sau này dù ta viết chữ bằng bất cứ loại bút gì chữ cũng một số điểm cơ bản về thư pháp bút lông:
I. VĂN PHÒNG TỨ BẢO 文房四寶
Hiện nay computer quả thực là bửu bối vô song, là một công cụ đắc lực của ta trong việc học tập Hán ngữ lẫn thư pháp, nhưng theo truyền thống thì chỉ có bốn bửu bối trong văn phòng (văn phòng tứ bảo):
* Giấy (chỉ
紙) * Mực (mặc
墨) * Nghiên (nghiễn
硯) * Bút (bút
筆)
Giấy cho dân nhà nghề là giấy Tuyên
宣, thường gọi là
«xuyến chỉ»
(đọc trại của Tuyên chỉ
宣紙), mỏng như giấy quyến vấn thuốc hút, dùng cho cả thư pháp lẫn hội họa, nhưng đắt tiền. Giấy Tuyên có hai loại: sinh chỉ
生紙
(giấy sống, chưa dúng phèn, dùng cho thư pháp) và thục chỉ
熟紙
(giấy chín, đã dúng phèn, dùng cho hội họa). Việc luyện tập tốn rất nhiều giấy, ta nên dùng giấy thường miễn hút mực (như giấy báo) là được.
Mực có hai loại: mực thỏi và mực nước (mặc trấp
墨汁). Mực thỏi có chất keo, loại tốt thường có mùi xạ hương. Mực tốt thì sau khi viết xong, ta bồi tranh chữ không bị nhoè mực. Mực nước (mặc trấp) tiện dụng nhưng không đủ độ sánh, ta cần mài thêm mực thỏi để tăng độ sánh đặc. Cách dùng mực rất quan trọng, tạo ra các hiệu quả khác nhau trên từng chất liệu hay các loại giấy. Trong nghề gọi là mặc pháp
墨法
(phép dùng mực). Mài mực cũng là cách tập cổ tay trước khi cầm bút viết chữ. Nói chung viết chữ trên giấy không hút nước thì mực phải đặc, trên giấy hút nước như giấy tuyên thì mực hơi sánh. Đừng pha mực quá loãng.
Nghiên mực có các kiểu dáng khác nhau, nhưng nguyên tắc là có một độ nghiêng nhỏ để cho mực đọng về một phía. Khi mài mực thì nhỏ một vài giọt mặc trấp vào cho hơi ướt đáy nghiên. Rồi mài thỏi mực theo chiều kim đồng hồ, thỉnh thoảng nhỏ thêm vài giọt mặc trấp. Pha chế vừa đủ cho một lần sử dụng, không nên đổ quá nhiều mặc trấp vào nghiên. Mực dùng không hết sẽ đọng thành vẩy và cặn cáu trên nghiên.
* Nghiên mực đời Khang Hi
* 3 mặt của một thỏi mực
Bút có nhiều loại: tiểu, trung, đại. Lông bút có loại cứng (như lông sói) có loại mềm (như lông thỏ) và có loại pha trộn các loại lông theo một tỉ lệ để thích hợp cho cả vẽ tranh lẫn viết chữ. Khác với cây bút của phương Tây là chủ yếu để viết chữ, mao bút của Trung Quốc có thể vừa viết chữ vừa vẽ tranh. Nói chung viết chữ nên dùng bút lông sói, còn vẽ tranh thì tùy theo trường hợp và tùy theo hiệu quả mong muốn mà ta sử dụng các loại bút khác nhau. Khi luyện thư pháp nên dùng bút cỡ trung để viết chữ Hán trong các ô vuông mỗi cạnh lớn chừng 5 hay 6 cm. Khi bắt đầu luyện tập thì phải đi từ chữ Khải. Không nên bắt đầu tập bằng tiểu khải (chữ Khải nhỏ chừng một phân vuông). Chỉ khi viết chữ to ta mới nghiên cứu được bút pháp và các bút thế. Khi thuần thục thì chữ viết phóng to thu nhỏ đều dễ dàng.
* Bồn rửa bút bằng ngọc
Các bộ phận của bút lông:
* Đào tuyến
陶線: sợi dây nhỏ ở một đầu quản bút, dùng treo bút lên giá bút sau khi sử dụng.
* Bút quản
筆管
(bút can
筆杆): quản bút, bằng trúc.
* Bút hào
筆毫: búp lông, giống búp sen chưa nở.
* Bút căn
筆根: phần búp lông dính với quản bút.
* Bút đỗ
筆肚: bụng búp lông.
* Bút phong
筆鋒
(bút tiêm
筆尖): ngọn bút.
* Bút mạo
筆帽: nắp bút (bằng trúc hoặc nhựa).
Viết xong, ta rửa sạch bút, móc đào tuyến vào một cái giá để ngọn bút quay xuống đất. Không nên dùng bút mạo vì nó dễ làm hư lông bút.
II. NGŨ CHỈ PHÁP 五指法
Đây nói về cách cầm bút (chấp bút pháp
執筆法). Ngũ chỉ chấp bút pháp
五指執筆法
hay ngũ tự chấp bút pháp
五字執筆法
là do Lục Hy Thanh
陸希聲
đời Đường sáng tạo. Năm ngón của bàn tay có tên: (1) Mẫu chỉ
拇指
(ngón cái), (2) thực chỉ
食指
(ngón trỏ), (3) trung chỉ
中指
(ngón giữa),
(4) vô danh chỉ
無名之
(ngón áp út), (5) tiểu chỉ
小指
(ngón út). Năm ngón ứng với năm chữ (ngũ tự
五字):
* Yếm
厭:
tác dụng của ngón cái ép vào quản bút.
* Áp
壓:
tác dụng của ngón trỏ ép vào quản bút, đối ứng với ngón cái.
* Câu
鉤: tác dụng của ngón trỏ tựa vào quản bút, dùng móc phần quản bút có búp lông hướng vào lòng bàn tay.
* Cách
格:
tác dụng của ngón áp út, móng tay ngón này áp vào quản bút, đẩy phần quản bút này ra ngoài.
* Để
抵:
tác dụng của ngón út, ép sát vào ngón áp út để trợ lực cho ngón áp út.
Xem tiết diện quản bút trong hình trên đây: hai đầu ngón cái và trỏ kẹp lấy quản bút, rồi đầu ngón giữa áp vào quản bút, rồi móng tay ngón áp út chạm vào quản bút, và ngón út áp sát vào ngón áp út. Có bốn lực tác dụng vào quản bút (chiều mũi tên). Ngón cái và ngón trỏ làm điểm tựa giữ cho bút vững, các ngón còn lại dùng móc và đẩy phần quản bút có ngọn bút một cách linh hoạt. Đó là cách cầm bút để viết chữ khải.
Tuỳ theo thư thể hoặc chữ cực lớn (đại tự
大字) hoặc cây bút thật lớn (đại bút
大筆) mà cách cầm bút cũng khác nhau. Cách cầm bút tạo ra nhiều hiệu quả khác nhau, giống như cách cầm mao bút vẽ tranh. Tuy nhiên, mới học thư pháp thì phải áp dụng ngũ chỉ chấp bút pháp. Xem hình sau đây:
đúng Ngũ chỉ chấp bút pháp của Lục Hy Thanh. Các hình 2, 3, và 4 là biến thể. Viết tiểu khải
小楷 (chữ khải nhỏ) thì vị trí của ngón cái và ngón trỏ ở khoảng 1/3 quản bút về phía ngọn. Viết trung khải
中楷
(chữ khải vừa) hay đại khải
大楷
(chữ khải lớn) thì vị trí của chúng ở giữa quản bút.
Khi chấp bút ta phải nhớ khẩu quyết “chỉ thực, chưởng hư”
指實掌虛, nghĩa là đầu ngón tay áp vào bút, còn lòng bàn tay thì trống rỗng. Nhìn nghiêng, ngón cái và ngón trỏ tạo thành mắt phượng (phượng nhãn
鳳眼).
III. OẢN PHÁP
腕法
Đây là kỹ pháp của cổ tay (oản / uyển), gồm có:
1. Chẩm oản
枕腕
(gối cổ tay): bàn tay trái úp và lót dưới cổ tay bàn tay phải, tức là cổ tay phải gối nhẹ lên bàn tay trái, và trượt nhẹ trên đó khi viết chữ. Hoặc cổ tay phải chỉ áp nhẹ trên mặt bàn (bàn tay trái không lót ở bên dưới). Khi viết ta chỉ lấy sức mạnh của ngón tay (chỉ lực
指力) mà điều khiển ngọn bút. Oản pháp này dùng khi ta viết tiểu khải hoặc trung khải.
Ngũ chỉ pháp Chẩm oản
Chẩm oản Huyền oản Đại huyền oản
2. Huyền oản 懸腕
(treo cổ tay): cũng gọi đề oản
提腕, tức là cổ tay lơ lửng không tựa vào đâu cả, nhưng khuỷu tay thì chạm nhẹ mặt bàn. Khi viết chữ, ta chuyển động cả cánh tay, cổ tay, và ngón tay. Oản pháp này dùng khi ta viết đại khải.
3. Đại huyền oản 大懸腕
(treo hổng cổ tay): cũng gọi huyền trửu
懸肘
(treo khuỷu tay). Toàn bộ cánh tay không tựa vào đâu cả. Khi viết chữ, ta chuyển động cả cánh tay, cổ tay, và ngón tay. Oản pháp này dùng khi ta đứng viết đại tự (cỡ 10×10 cm) hoặc chữ thảo.
IV. NHÃN PHÁP
眼法
Khi viết chữ, mắt ta tập trung nhìn thẳng vào chữ, không được nhìn nghiêng.
V. THÂN PHÁP
身法
1. Thế ngồi:
Ta ngồi ghế, đầu ngay ngắn, hai vai ngang nhau, lưng thẳng, không tỳ ngực vào bàn, hai chân để tự nhiên, không vắt tréo chân, không rung đùi, tay trái đặt trên tờ giấy giữ cho nó cố định trên bàn. Tập trung tư tưởng, hơi thở điều hòa. Một số nhà luyện khí công còn ngồi kiết già hoặc bán già trên ghế khi viết chữ.
* Thế ngồi
2. Thế đứng:
Ta đứng viết đại tự (chữ vuông mỗi cạnh ít nhất là 10 cm). Hoặc ta đứng hai chân song song, khoảng cách hai bàn chân bằng vai; hoặc ta đứng chân phải ở trước, chân trái ở sau. Thân hình ngay ngắn, trầm tĩnh, dùng đại huyền oản. Một số người lúc viết chữ thì hay uốn éo, co giật, múa may, tay cố tình run như bị chứng parkinson. Đó là bàng môn tả đạo, ta không nên bắt chước. Dù ngồi hay đứng, ta cần tập trung khí lực ở hạ đan điền (vị trí dưới rốn khoảng một đốt tay), hơi thở điều hòa.
* Thế đứng
VI. BÚT PHÁP
筆法
1. Khởi bút
起筆
, hành bút
行筆
, thu bút
收筆
:
* Khởi bút 起筆 còn gọi là lạc bút 落筆, hạ bút 下筆. Có ba cách:
(1) ngọn bút đưa sang trái rồi kéo sang phải; (2) ngọn bút đưa lên trên rồi kéo ngang một chút rồi kéo xuống; (3) đặt ngọn bút vào là kéo đi luôn. Cách (1) và (2) gọi là hồi phong 回鋒. Ta bắt buộc phải hồi phong khi viết các thư thể: triện, lệ, khải. Cách (3) dùng khi viết chữ hành, chữ thảo.
* Hành bút
行筆
là bước trung gian giữa khởi bút và thu bút, tức là khi ngọn bút di động tạo ra nét chữ.
* Thu bút
收筆:
dù ta kéo nét ngang hay nét sổ, đến cuối nét, ta dừng ngọn bút và thu hồi theo hướng ngược lại một chút rồi nhấc bút lên. (Xem hình bên)
2. Tàng phong
藏鋒
& lộ phong
露鋒
:
* Tàng phong cũng gọi ẩn phong
隱鋒(giấu ngọn bút) hay nghịch phong
逆鋒
(ngược ngọn bút). Khi khởi bút, ta hướng bút ngược lại chiều muốn kéo (nghịch phong). Khi thu bút ta hướng ngược chiều đã kéo (cũng gọi là hồi phong
回鋒). Tàng phong làm cho nét bút đầy đặn, khí lực sung mãn, ngoài nhu trong cương.
* Lộ phong cũng gọi xuất phong
出鋒, tức là để lộ nét bút do lúc khởi bút ta không tàng phong và lúc thu bút ta không hồi phong mà kéo ngọn bút đi luôn. Nét bút lộ phong cũng cần có gân cốt, biểu lộ tinh thần.
3. Trung phong
中鋒
& trắc phong
側鋒
:
* Trung phong cũng gọi chính phong
正鋒, tức là khi búp lông đứng thẳng góc với mặt giấy. Ngọn bút nằm chính giữa nét bút, tạo sự hồn hậu, đầy đặn. Khi mới tập viết, ta nên dùng trung phong.
* Trắc phong là khi búp lông đứng xiên với mặt giấy. Ngọn bút nằm ở cạnh nét bút. Bút tiêm và bút đỗ cùng tiếp xúc và di động trên mặt giấy, thích hợp viết chữ hành, chữ thảo. Khi mới tập viết, ta không nên dùng trắc phong.
4. Chiết phong
折鋒
& chuyển phong
轉鋒
:
* Chiết phong là đưa ngọn bút tạo nét gấp. Chiết phong tạo ra phương bút
方筆
(vuông).
* Chuyển phong là chuyển ngọn bút tạo nét cong. Chuyển phong tạo ra viên bút
圓筆
(tròn).
< trung
5. Đề bút
提筆
& án bút
按筆
:
* Đề bút: kéo ngọn bút nhẹ nhàng trên mặt giấy, nét bút đều đặn.
* Án bút: ấn ngọn bút, tạo nét thô, đậm.
6. Trú bút
駐筆
& quá bút
過筆:
* Trú bút:
ngọn bút dừng như ở các chỗ cuối nét hay ở góc cạnh chữ.
* Quá bút: nét bút lướt nhanh trên mặt giấy, nhưng có sức lực.
Ngọn bút lúc đi, lúc dừng, lúc nhanh lúc chậm, tạo ra tiết tấu.
7. Thuận bút
順筆
:
Tùy theo thư thể mà thứ tự nét bút phải thuận, hợp với quy tắc viết chữ.
8. Không hành
空行
:
Trước khi hạ bút cho ngọn tiếp xúc mặt giấy, tay ta cầm bút viết thử phía trên cao của mặt giấy, ước lượng kết cấu của chữ và bố cục của tấm thư pháp.
VII. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP
Luyện thư pháp có hai cách chính: Mô
摹
và Lâm
臨
theo các mẫu chữ có sẵn (thiếp
帖) của các đại thư pháp gia. Các tự thiếp
字帖
và bi thiếp
碑帖
(những thác bản
拓本
rập trên các bia đá) được bán rất nhiều, ta có thể sưu tầm và luyện tập.
1. Mô thiếp
摹帖
:
Mô là mô phỏng
摹伉
(bắt chước) theo mẫu:
* Tả phỏng ảnh
寫伉影
(can-kê, calquer): Ta lấy một tờ giấy mỏng đặt lên trên trang chữ mẫu, các chữ mẫu sẽ hiện hình lờ mờ qua trang giấy mỏng. Ta dùng bút đồ theo.
* Đơn câu
單鉤:
Ta lấy một tờ giấy mỏng đặt lên trên chữ mẫu, rồi dùng bút chì vẽ đường tim của từng nét chữ. Sau đó ta lấy tờ giấy ra ngoài, rồi dựa theo các đường tim này mà phục hồi các nét bút của chữ đó.
* Song câu
雙鉤: Ta lấy một tờ giấy mỏng đặt lên trên chữ mẫu, rồi dùng bút chì vẽ đường viền của từng nét chữ. Sau đó ta lấy tờ giấy ra ngoài, rồi dựa theo các nét chữ rỗng chỉ có đường viền này mà phục hồi các nét bút của chữ (thao tác này gọi là điền thực 填實: lấp đầy).
2. Lâm thiếp
臨帖
:
Lâm có hai loại: Cách lâm
格臨
và Đối lâm
對臨:
Cửu cung cách Mễ tự cách
Hồi tự cách Điền tự cách
* Cách lâm
格臨
là viết nhái theo mẫu chữ có sẵn theo một khung có phân chia tỷ lệ (gọi là cách
格
). Lâm tương tự như cách thức mà các học sinh trung học dùng để tập vẽ bản đồ. Các cách thông dụng là Cửu cung cách
九宮格
(khung 9 ô vuông), Mễ tự cách
米字格
(khung theo gạch ngang và chéo theo chữ mễ
米
), Hồi tự cách
回字格
(khung hình chữ hồi
回
). Điền tự cách
田字格
(khung có 4 ô vuông như chữ điền
田
).
Một số tự thiếp và bi thiếp bán sẵn ở hiệu sách đã kẻ ô rồi (thường là theo cửu cung cách). Đối với các tự thiếp và bi thiếp không có kẻ ô, ta làm như sau: Lấy một tấm giấy trong hoặc một tấm plastic trong rồi dùng bút mực đen không phai mà vẽ các khung như trên với nhiều kích cỡ khác nhau. Khi tập viết, ta đặt khung đè lên chữ để thấy tỷ lệ các nét với nhau. Trên giấy tập viết, ta cũng vẽ khung phân ô như vậy và canh theo từng ô mà vẽ nét chữ. Việc này y như vẽ bản đồ.
*
Đối lâm
對臨
giống như thao tác của một họa sĩ vẽ truyền thần. Ta đặt chữ mẫu trước mặt, ngắm nhìn cho kỹ các nét rồi trực tiếp dùng bút viết chữ thẳng vào một tờ giấy trắng, hoàn toàn không sử dụng cửu cung cách hay các cách tương tự.
Cách lâm giúp ta nắm được kết cấu của chữ (kết thể
結體), vị trí nét bút chính xác của mặc tích
墨跡
của cổ nhân. Đối lâm giúp ta đạt được bút thế
筆勢
và thần thái của mặc tích.
Quá trình luyện tập thông thường có thể tóm tắt bằng mấy chữ: độc
讀, mô
摹, lâm
臨, bối
背.
* Độc
讀 (đọc) là xem xét kỹ lưỡng chữ mẫu. Độc theo nghĩa rộng cũng là tham bác các thư thể, tự thiếp, bi thiếp, các mặc tích của cổ nhân; đọc sách luận về thư pháp để nghiên cứu bút pháp, bút thế, kết thể, chương pháp; nghiên cứu sự tiến hoá của chữ Hán.
* Mô
摹
và
lâm
臨
đã giải thích trên, tức là giai đoạn thực hành.
* Bối
背
là bối tụng, là ghi nhớ nằm lòng, giống như “chụp hình” một chữ mẫu vào trong tiềm thức. Khi ta viết chữ đó, dường như nó hiện diện trước mặt ta.
Phương pháp «chụp hình» rất hữu hiệu khi học chữ Hán và luyện thư pháp. Ta ngồi kiết già hay bán già, tập trung tư tưởng nhìn một chữ hồi lâu, rồi nhắm mắt lại. Trong khi nhắm mắt, trong đầu ta hiện ra hình ảnh của chữ đó rõ mồn một y hệt như ta đã thấy trước đó. Đồng thời ta dùng ngón tay trỏ vẽ trong không khí chữ đó. Chiêu này gọi là trừu không luyện tự
抽空練字, một độc chiêu mà vua Đường Thái Tông
唐世宗
(Lý Thế Dân
李世民) đã dùng để học bút pháp của Vương Hi Chi
王羲之. Chiêu này rất tuyệt diệu khi ta học chữ hành, nhất là chữ thảo vốn là một thư thể giản ước chữ Hán trong vài nét bút.
Khi hạ thủ công phu, ta phải noi theo thư thể của một đại thư gia nào đó. Thí dụ tập chữ khải, ta có thể chọn Liễu thể
柳體, Nhan thể
顏體, Âu thể
歐體, hay Triệu thể
趙體, tức là các thể khải thư của các đại thư gia đời đường như: Liễu Công Quyền
柳公權, Nhan Chân Khanh
顏真卿, Âu Dương Tuân
歐陽詢, hay khải thư của đại thư họa gia đời Nguyên là Triệu Mạnh Phủ
趙孟頫. Ban đầu, ta tập theo các tự thiếp của các đại thư gia trên. Giai đoạn này gọi là nhập thiếp
入帖. Khi thuần thục ta phải có nét sáng tạo riêng của chính mình, mang cá tính của mình. Giai đoạn này gọi là xuất thiếp
出帖.
* Thư pháp Liễu Công Quyền
* Thư pháp Nhan Chân Khanh
Mới học thư pháp ta phải bắt đầu từ chữ khải và phải là trung khải (mỗi chữ khoảng 5×5 cm); đừng luyện tiểu khải. Ta nên luyện Liễu thể và Nhan thể để nét chữ có gân cốt. Khi chữ trung khải của ta đã thuần thục, ta mới luyện tiểu khải và học qua chữ hành, chữ thảo. Một số học viên cũng có thể hạ thủ công phu với Âu thể hoặc Triệu thể. Chúng ta nên nghiên tập khải thư của Liễu Công Quyền và Nhan Chân Khanh. «Nhan cân Liễu cốt»
顏筋柳骨
(Nhan thể có gân, Liễu thể có xương) là một lời tán tụng lâu đời về khí lực và gân cốt của hai thư thể này. Đôi khi vì nôn nóng muốn tốc thành, nhiều người mới học mà vội luyện ngay chữ hành hay chữ thảo, hậu quả cực kỳ tai hại là nét chữ yếu đuối vì thiếu khí lực và gân cốt; sau này muốn quay lại với chữ khải thì nét bút đã thành tật, khó sửa chữa.
VIII. CÔNG CỤ TRỢ HUẤN
1. Dĩa VCD dạy thư pháp do Trung Quốc sản xuất: Các dĩa này đã bày bán đầy ở các hiệu sách ngoại văn. Phổ biến là các dĩa VCD của thư pháp gia trứ danh hiện đại Dương Tái Xuân
楊再春
giảng giải, do Đại học Thể dục Bắc Kinh xuất bản. Đủ các loại thư thể được giảng dạy, rất đáng cho người tự học tham khảo. Thí dụ:
* 99 thiên mao bút tự tốc thành luyện tập pháp: Hành thư. 99 天毛筆字速成練習法﹕行書 (cách luyện tập nhanh chữ bút lông trong 99 ngày: chữ Hành) của Dương Tái Xuân.
* Thư pháp Tô Thức (Tô Đông Pha)
* Danh gia giáo nễ luyện thư pháp 名家教你練書法
(các danh gia dạy bạn học thư pháp) xếp theo trong Series Thư pháp bệnh viện
書法病院
, phân tích các lỗi thông thường khi viết chữ.
* Trung Quốc Thư pháp 中國書法. Trọn bộ khoảng 10 dĩa CD, xếp theo từng chủ đề, do nhiều thư pháp gia khác nhau phụ trách giảng dạy, cũng do Đại học Thể dục Bắc Kinh xuất bản. v.v.
2. Các sách thư pháp, tự thiếp, bi thiếp, tự điển thư pháp, v.v. do Trung Quốc xuất bản cũng là tài liệu tham khảo cần thiết. Hiện có bán tại các hiệu sách ngoại văn.
3. Ngoài ra trên Internet có vô số trang Web về thư pháp. Ta vào search engine của Google, chọn phần ngôn ngữ là Chinese hoặc English, rồi gõ chữ
書法
hoặc Chinese calligraphy, máy sẽ cho ta các địa chỉ mà ta cần tìm.