Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định: ” Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Việc Hiến pháp ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của quyền năng pháp lý này. Xét trên phương diện lý thuyết thì thực hiện khiếu nại, tố cáo chính là phương thức quan trọng để công dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khiếu nại theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục Luật Khiếu nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khiếu nại hành chính thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân mà trong đó bên đi khiếu nại là công dân hoặc cơ quan, tổ chức chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Còn bên bị khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Mục đích cuối cùng của người đi khiếu nại để đòi lại chính quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi hành chính trái pháp luật xậm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chính họ.
Theo khoản 1 điều 2 Luật Tố cáo năm 2023 quy định: Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật Tố cáo báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.Như vậy, c hủ thể thực hiện quyền tố cáo theo quy định trong Luật Tố cáo chỉ là cá nhân. Khác với khiếu nại, chủ thể khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức đều có quyền khiếu nại còn chủ thể thực hiện quyền tố cáo chỉ quy định cho đối tượng là cá nhân nhằm cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo, nếu có hành vi cố ý tố cáo sai sự thật thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Mục đích của việc tố cáo có thể để bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Và mục đích cuối cùng của việc tố cáo là xử lý hành vi phạm pháp luật của người bị tố cáo, đảm bảo kỷ cương pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh.
Trên thực tế có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo trong quá trình xử lý đơn, xác minh giải quyết, qua phân tích, giải thích của người có thẩm quyền có tình, có lý, có tính thuyết phục, người khiếu nại, tố cáo nhận thức được vấn đề đã tự nguyện rút đơn. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là: làm sao để người khiếu nại, tố cáo tự nhận thấy được nội dung khiếu nại, tố cáo của mình là sai, hoặc sai một phần để tự nguyện rút đơn trong quá trình giải quyết; căn cứ pháp lý, trình tự, thủ tục trong rút khiếu nại, tố cáo được thực hiện như thế nào….
Luật Khiếu nại năm 2011 đã quy định khá đầy đủ vấn đề này. Khoản 3 điều 2 của Luật Khiếu nại quy định “rút khiếu nại” là việc người khiếu nại đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chấm dứt khiếu nại của mình. điểm l khoản 2 điều 12 quy định người khiếu nại có quyền “rút khiếu nại”. Về trình tự thủ tục rút khiếu nại, theo quy định tại điều 10 của Luật Khiếu nại năm 2011: Người khiếu nại có thể rút khiếu nại tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại; việc rút khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn xin rút khiếu nại phải gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khi nhận được đơn xin rút khiếu nại thì đình chỉ việc giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại.
Luật Tố cáo năm 2011 chưa đề cập cụ thể về “rút tố cáo” màmới chỉ quy định việc rút tố cáo tại điều 6 Thông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Thanh tra Chính phủ quy định về quy trình giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp, trong quá trình tố cáo, người tố cáo có thể tự mình nhìn nhận hoặc được cơ quan tiếp nhận, người xác minh hoặc người giải quyết tố cáo phân tích về việc tố cáo đó là không có cơ sở, không đủ căn cứ, không đủ bằng chứng nên có nguyện vọng được rút tố cáo. Việc rút tố cáo trong những trường hợp này là cần thiết để tránh tố cáo sai, ảnh hưởng đến uy tín của người bị tố cáo. Trên thực tế theo b áo cáo số 3537/BC-TTCP ngày 30 tháng 12 năm 2023 của Thanh tra Chính phủ về việc Tổng kết 4 năm thi hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo cũng cho thấy, qua quá trình giải quyết tố cáo chỉ có 12,4% tố cáo đúng; 28,3% tố cáo có đúng, có sai; 59,3% tố cáo sai. Do đó, Luật Tố cáo năm 2023 đã bổ sung quyền mới của người tố cáo đó là rút tố cáo được quy định tại điều 33: Theo đó, n gười tố cáo có quyền rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung tố cáo trước khi người giải quyết tố cáo ra kết luận nội dung tố cáo. Việc rút tố cáo phải được thể hiện bằng văn bản. N gười giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 33 của Luật tố cáo năm 2023, cụ thể: Trường hợp người tố cáo rút tố cáo mà người giải quyết tố cáo xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải được giải quyết.
Như vậy cùng là việc rút khiếu nại và rút tố cáo nhưng hậu quả của việc rút khiếu nại và rút tố cáo là khác nhau: khi người khiếu nại rút khiếu nại tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và việc rút khiếu nại tuân theo trình tự Luật Khiếu nại quy định thì người giải quyết khiếu nại sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại, chấm dứt việc giải quyết khiếu nại. Còn trong tố cáo
không phải người tố cáo rút đơn tố cáo là người giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ ngay như trong giải quyết khiếu nại, mà người giải quyết tố cáo cần phải xem xét nếu thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải được giải quyết mà không tiến hành đình chỉ.
Phạm Thị Hường – GV Khoa Nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo