Mẫu đơn hoa đẹp & vị thuốc quí
Ngoài ra, trước đây Mẫu đơn được xếp vào họ Mao lương (Ranuncullaceae), nhưng từ cuối thế kỷ trước, các nhà thực vật lại tách chi Paeonia, gồm 33 loài, có thân thảo, có loài thân mộc, ra thành một họ riêng gọi là họ Bạch thược (Paeoniaceae). Các loài Mẫu đơn chỉ phát triển tốt ở các vùng mùa đông thật lạnh (từ -10 đến +100C).
Xích thược (Paeonia suffruticosa)
Mẫu đơn cao (Paeonia suffruticosa, tên đồng nghĩa: P. moutan)
Thân có hoá gỗ, sống lâu năm: bụi cao đến 2m. Rế phát triển thành củ. Lá 2 lần kép, mặt trên xanh đậm, mặt dưới trắng nhạt. Hoa khá lớn, thường từng cặp, đường kính 15 – 20cm, mọc ở ngọn cành, có mùi thơm. Hoa có nhiều cánh màu trắng, đỏ tía hay vàng. Nhị nhiều, màu vàng. Quả đại. Có rất nhiều chủng lai tạo cho hoa rất đẹp.
Mẫu đơn bì (Cortex Moutan) là vỏ rễ phơi khô của P. suffruticosa, chứa paeoniflorin, paenosid, paeonol paeoniflorin, tanin. Hoa có apigenin – 7 – glucosid; apigenin – 7 – rhamnoglucosidl kaempferol 3,6 diglucosid; kampferol – 3 – beta – glucosid.
T
Paeonia mlokosewtschiiheo Đông y, Mẫu đơn bì vị cay, đắng, tính hơi hàn. Có tác dụng giải nhiệt, lương huyết, tiêu ứ kết, điều hoà huyết mạch. Chủ trị huyết nhiệt, sốt phát ban, sốt cao gây kinh giật, nôn ra máu, chảy máu cam, ho lâu, ho ra máu, rối loạn kinh nguyệt, bế kinh, mụn nhọt ngoài da. Liều dùng 4 – 12g, sắc uống. Kỵ thai.
Mẫu đơn (Paeonia lactiflora, P. albiflora)
Paeonia officinalis “Rosea”
Thân thảo, sống lâu năm nhờ rễ củ, thân cao 50 – 80cn. Lá mọc so le, chụm 2 hay chụm 3. Lá hình xoan hay mũi giáo dài 8 – 12cm, rộng 2 – 4cm, có thể nguyên, hay xẻ thành 3 thuỳ, mặt trên xanh bóng. Hoa rất lớn, mọc đơn độc, thơm mùi hoa hồng. Hoa rộng 10 – 12cm. Đài hoa có 6 phiến, các cánh hoa xếp trên một hoặc hai vòng, trước khi nở màu hồng, rồi chuyển dần sang trắng…
Paeonia officinalis “Rubra Plena”Rễ củ của P. lactiflora chứa các hợp chất loại monoterpen glycosid như paeoniflorin (có thể đến 5,8%), tinh bột, tanin, axít gallic , tinh dầu, nhiều khoáng chất… Hoa chứa beta – glucogallin, glucogallin, beta – sitosterol, paeinidin, kaempferol, pentacosan.
Lá chứa nhiều flavanoid như kaempferol, quercentin, quercimeritrin…
Paeonia lactiflora “Moonstone”
Xích thược (Radix Paeoniae Rubra) là rễ của của P. lactiflora hoặc rễ của P. veitchii, lặt bỏ rễ phụ nhỏ, rửa sạch, để nguyên vỏ, phơi khô (mặt ngoài màu đỏ nâu hay nâu tía). Theo Đông y, Xích thược vị chua, đắng, tính hơi hàn. Có tác dụng tả can hoả, làm tan huyết độc. Chủ trị đau bụng, đau hông mà bên trong tích hòn cục, phong nhiệt, ung nhọt, sưng tấy, mắt đỏ, kinh nguyệt bế tắc. Liều dùng 6 – 12g, sắc uống.
Paeonia lactiflara “Scarlett O’Hara”Bạch thược (Radix Paeoniae Alba) cũng là rễ của của P. lactiflora, lặt bỏ rễ phụ nhỏ, cạo bỏ vỏ, trụng qua nước sôi rồi phơi khô. Theo Đông y, Bạch thược có vị đắng, chua, hơi hàn. Có tác dụng bình can, dưỡng huyết, giảm tiết mồ hôi, điều hoà tì vị, giảm sưng đau. Chủ trị đau tức trong bụng, ngực, hông, tay chân co quắp, đau bụng đi tả, lỵ, mồ hôi trộm, đau bụng kinh, rong kinh, băng huyết. Liều dùng 4 – 16 g/ngày, sắc uống. Dùng phối hợp với Đương quy và Sinh địa để trị chóng mặt, mắt mờ, kinh nguyệt không đều liên hệ đến huyết nhược và huyết ứ; thêm Mạch môn đông để trị ù tai, mắt mờ, tê đầu ngón tay chân, co giật bắp thịt gây ra do Âm Can suy nhược.
Paeonia lutea
Có thể phối hợp với nhiều vị thuốc khác như Cúc hoa, Câu đằng khi trị nhức đầu; phối hợp với Hoàng cầm và Hoàng liên để trị kiết lỵ do nhiệt thấp. Trị huyết trắng và bần tinh cùng các chứng suy nhược do phong hàn ngoại nhập (phối hợp với Quế chi); dùng trị Âm suy Dương thăng nơi biểu bì gây ra đổ mồ hôi đêm.
Mẫu đơn thuốc (Paeonia officinalis)
Paeonia suffruticosa Là đặc trưng của Mẫu đơn Âu châu, được xem là dược thảo do người Hy Lạp sử dụng từ thời xa xưa. Thân thảo, cao đến 60cm. Rễ phình thành củ. Lá màu xanh bóng, xẻ nhiều thuỳ. Hoa mọc đơn độc ở ngọn cành, màu đỏ thắm, vàng hay hồng với nhiều vòng cánh hoa, giống như hoa hồng, đường kính khoảng 10cm, nhị vàng. Nhiều chủng lai tạo cho hoa rất đẹp. Hoa P. officinalis chứa các sắc tố anthocyanin, đặc biệt nhất là paeonin; các flavanoid như kaempferol; tanin, cũng gặp trong lá và rễ. Rễ chứa các monoteroen, nhiều nhất là monterpen ester glucosid loại pinan, như paeoniflorin; tanin; axit hữu cơ… Hột có axit arabinic, paeonibrown, pectin…
Paeonia suffruticosa subsp. rockii
Dược học Tây phương chủ yếu dùng Mẫu đơn thuốc. Ngay từ thời Dioscorrides, Mẫu đơn được dùng để trừ ác mộng, trị cuồng động (hysteria) và trị đau vùng tử cung. Rễ khô được cho sản phụ dùng ngay sau khi sinh để giúp tống nhau ra và chóng phục hồi. Culpeper khuyên dùng rễ tươi để trị kinh phong và hột để giúp tẩy uế sản phụ… Hoa phơi khô nhanh, cần giữ được màu đỏ. Hoa thường dùng trong các phương thuốc dân gian để trị kinh phong, thống phong và những rối loạn đường tiêu hoá. Dược thư Đức (1998): Hoa dùng trị các bệnh ngoài da và niêm mạc, vết nức do trĩ, thống phong, thấp khớp, và các bệnh đường hô hấp. Rễ dùng trị co giật do đau đường tiêu hoá, bệnh thần kinh, sỏi thận, sỏi bàng quang.